Sơ Lược Tiểu Sử của Mẹ Têrêsa Calcutta
Ngày 5/9/1997, Mẹ Têrêsa đã được Chúa gọi về, hưởng thọ 87 tuổi. Suốt một cuộc đời hy sinh phục vụ cho những người nghèo đói khổ cực, Mẹ Têrêsa, một tôi tớ trung thành của Ðức Kitô, luôn được người người trên thế giới chúc tụng, rất xứng đáng cho giáo dân Việt Nam chúng ta noi gương và ghi nhớ. Sau đây chúng tôi xin sơ lược một vài chi tiết về tiểu sử của Mẹ Têrêsa:
Mẹ Têrêsa sinh ngày 26/8/1910 tại Skopje, Macedonia, Yugoslavia (Nam Tư); Mẹ có tên thật là Agnes Gonxha Bojaxhiu; con út trong một gia đình có ba người con; cha làm nghề xây dựng. Ngày 27/8/1910 lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội. Mẹ Têrêsa thường tâm sự, ngày Rửa Tội chính là ngày sinh nhật chính thức trong cuộc đời của Mẹ.
Ðủ 18 tuổi, Mẹ Têrêsa gia nhập Dòng Nữ Vương Ðức Bà Loreto ở Ái Nhỉ Lan (Ireland). Tu học tại nhà mẹ của Dòng Loreto ở Dublin. Mẹ Têrêsa chọn cho mình tên gọi là Sơ Têrêsa để luôn tưởng niệm Thánh Nữ Têrêsa Lisieux. Tháng 12 năm 1928, Sơ Têrêsa bắt đầu một cuộc hành trình dài đến Ấn Ðộ, rồi tiếp tục đến Darjeeling, khu vực gần Dãy Núi Hy Mã Lạp Sơn (Himalayan Mountains), nơi Sơ Têrêsa tiếp tục tu học cho đến ngày khấn. Không lâu sau đó, vào ngày 6/1/1929 Sơ Têrêsa đến Calcutta, thủ đô Bengal, Ấn Ðộ, để dạy học tại một trường Nữ Trung Học. Trong thời gian tại Calcutta, điều đánh động Sơ Têrêsa nhiều nhất đó là tận mắt trông thấy các bệnh nhân ốm liệt, nghèo đói và hấp hối đầy trên các đường phố.
Năm 1946, sau khi đã chứng kiến những nạn nhân khốn khổ đầy thương tích và chết chóc, các trẻ em bơ vơ trên đường phố, kết quả của những biến cố nổi loạn giữa Hồi Giáo và Ấn Giáo, ngày 10/9/1946, trên một chuyến xe lửa đi về Darjeeling để điều trị bệnh lao mới phát, Sơ Têrêsa nhận ra được tiếng mời gọi của Chúa thúc dục Sơ phục vụ cho những người nghèo đói khốn khổ. Mẹ Têresa kể lại:
"Tôi bắt đầu nhận ra tiếng gọi của Chúa kêu mời tôi săn sóc cho những người bệnh tật và nghèo đói, những kẻ rách rưới và lang thang - thúc dục tôi ban phát tình yêu của Chúa cho các người khốn khổ và bơ vơ. Sự kiện nầy đã mở cửa cho bước đầu phục vụ Bác Ái của đời tôi."
Mẹ Têrêsa không chần chờ, đắn đo, và bắt đầu xin phép rời Hội Dòng Loreto để thiết lập một nhà Dòng mới. Ðược Ðức Giáo Hoàng Piô XII cho phép. Và năm 1948, Mẹ Têrêsa, với chiếc áo dòng củ kỷ và một vài đồng lẻ trong túi đã đến sống giữa những người Ấn Ðộ như một người Ấn Ðộ. Ðương nhiên Mẹ Têrêsa cũng chọn màu áo xanh xám có những viền xanh (biểu hiệu cho Thánh Ý của Thiên Chúa) giống như áo Hội Dòng của Mẹ.
Năm 1952 Mẹ Têrêsa cùng với Hội Dòng Nữ Tu Bác Ái của Mẹ đã bắt tay vào việc. Hội Dòng của Mẹ đã được bản quyền Calcutta cho phép xử dụng ngôi đền Kali đã bị bỏ hoang của Ấn Giáo. Mẹ Têrêsa đã biến nó trở thành Hội Quán Kalighat cho những người nghèo đói đau khổ. Mẹ đã cùng với các cộng tác viên tìm kiếm những người bệnh tật, hấp hối thất thểu ngoài đường phố, đem về săn sóc cho đến ngày họ qua đời. Ðối với những người bệnh tật, Mẹ đã tìm kiếm thuốc thang săn sóc cho họ, đối với những người khổ đau, Mẹ là một nguồn ủi an đem bình an và tình yêu của Chúa đến với họ...
Năm 1962, Mẹ được giải thưởng đầu tiên về công việc Nhân Ðạo của Mẹ. Năm 1979, được giải thưởng Nobel Hòa Bình. Năm 1985, được trao Huy Chương Tự Do, huy chương dân sự cao quý nhất của Hoa Kỳ. Mẹ đã dùng tất cả những số tiền giải thưởng này để thiết lập thêm nhiều trung tâm khác.
Mẹ Têrêsa đã được cả thế giới kính phục và biết ơn vì những tấm lòng hy sinh tràn đầy yêu thương phục vụ. Tinh thần của Mẹ Têrêsa đã in sâu mãi trong lòng mỗi người dân trên thế giới.
MẸ TERESA CALCUTTA GẮN BÓ VỚI VIỆT NAM
- Vào tháng 6 năm 1973, Mẹ Teresa và Cha Andrew gửi 7 thầy Thừa Sai Bác Ái từ Ấn Độ đến Việt Nam. Đức Tổng Phaolô Nguyễn Văn Bình đã mua 2 căn nhà tại đường Cống Quỳnh cho các thầy ở và làm việc. Các thầy rước các người vô gia cư về chăm sóc, nhưng chỉ được vài năm thì biến cố 1975 các thầy đã phải tản cư sang Hongkong và Campuchia.
Đức Tổng Phaolô Nguyễn Văn Bình rất yêu thích linh đạo của Mẹ Teresa. Trong hoàn cảnh mới giao thời của năm 1975, khó khăn nhiều mặt, nhất là khan hiếm về thuốc men mà bệnh tật lại nhiều và người vùng quê tỉnh lẻ không dễ dàng nhập các bệnh viện tại Sài Gòn để điều trị.
Từ năm 1991 tới ngày 20.12.1995, Mẹ đã đến Việt Nam 5 lần.
Lần thứ nhất là đầu tháng 9 năm 1991, Mẹ Teresa đến Hà nội gặp Chính phủ Việt Nam.
Lần thứ hai, ngày 05.11.1993 Mẹ đi từ Calcutta đến thành phố Hồ Chí Minh.
Vào tháng 4 năm 1994, Mẹ sang Việt Nam lần thứ 3. Mẹ được Bộ Thương binh Xã hội mời 8 nữ tu của Mẹ qua Việt Nam làm việc: 4 nữ tu chăm sóc các em cô nhi tại 38 Tú Xương, Q.3, Tp. HCM; và 4 nữ tu chăm sóc các em khuyết tật tại trung tâm Thụy An, Ba Vì, Hưng Hoá. Đồng thời Mẹ Teresa làm đơn gửi Chính phủ Trung ương Hà Nội xin mở nhà dòng tại Việt Nam;
Từ thập niên 1970, Mẹ Teresa trở nên một nhân vật nổi tiếng thế giới.
Tổng thống Hoa Kỳ Ronald Reagan trao tặng cho Mẹ Teresa Huân chương Tự do năm 1985. Cùng lúc, thế giới Công giáo khởi sự tôn vinh Mẹ Teresa. Năm 1971, Giáo hoàng Phaolô VI trao tặng bà Giải Hòa bình Giáo hoàng Gioan XXIII lần thứ nhất, khen ngợi bà về những gì đã làm cho người nghèo, thể hiện lòng nhân ái Kitô và nỗ lực đấu tranh cho hòa bình. Năm 1976, bà được trao Giải thưởng Pacem in Terris. Sau khi mất, giáo hội đẩy mạnh qui trình phong thánh cho Mẹ Teresa, hiện bà đã được phong chân phước.
Tổng thống Hoa Kỳ Ronald Reagan trao tặng cho Mẹ Teresa Huân chương Tự do năm 1985.
Thủ tướng Pakistan Nawaz Sharif khi còn tại chức đã nói rằng bà là “một cá nhân độc đáo và hiếm có, đã cống hiến đời mình cho những mục đích cao đẹp. Cuộc đời lâu dài của bà được dành để chăm sóc người nghèo, người bệnh, người bất hạnh đã trở thành một trong những hình mẫu cao quý nhất về lòng tận tụy phục vụ nhân loại.
Các chính phủ và những tổ chức dân sự cũng tìm đến tôn vinh Mẹ Teresa. Vương quốc Anh và Hoa Kỳ nhiều lần trao tặng bà giải thưởng các loại, cao quý nhất là Order of Merit của Anh Quốc năm 1983, và công dân danh dự của Mỹ ngày 16 tháng 11 năm 1996. Quê hương Albania của Mẹ Teresa cũng dành cho bà Huân chương Vàng Nhà nước năm 1994.
Đặc biệt, năm 1979, Mẹ Teresa được trao tặng Giải Nobel Hòa bình cho “những hoạt động diễn ra trong sự đấu tranh vượt qua sự nghèo khó và cùng quẫn, là những điều đe dọa hòa bình.” Bà từ chối bữa tiệc mừng truyền thống và yêu cầu gởi số tiền 192.000 USD cho người nghèo ở Ấn Độ, nói rằng những phần thưởng trên thế gian chỉ có giá trị khi nào chúng giúp ích những người thiếu thốn trên thế giới.
Khi nhận giải thưởng, bà đặt câu hỏi, “Chúng ta có thể làm gì để thăng tiến nền hòa bình thế giới?”, và đưa ra câu trả lời, “Hãy về nhà và yêu chính gia đình mình.”
Cựu Tổng Thư ký Liên Hiệp Quốc Javier Pérez de Cuéllar nhận xét: “Bà là Liên Hiệp Quốc. Bà là hòa bình của thế giới”.
JBP tổng hợp từ internet
Đăng nhận xét