tháng 6 2013

Lời mở đầu

Cuối thập niên 80, Giáo Hội VN ca khúc khải hoàn khi Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II cùng giáo triều Rôma tôn phong 117 vị Thánh Tử Đạo tại VN trong những thế kỷ bách hại đầy gian nan tại giữa lòng quê hương, trong đó có 96 vị là người VN và 21 vị còn lại là các vị thừa sai người Pháp (10 vị), người Tây Ban Nha (11 vị).

Hơn một thập niên sau, ngày 5 tháng 3. Trong bối cảnh Năm Đại Thánh trước thềm thiên niên kỷ thứ Ba Kitô giáo, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II long trọng tôn phong người Tôi Tớ của Thiên Chúa là An-rê Phú Yên, vị Tử Đạo tiên khởi từ lòng Đất Mẹ VN lên hàng Chân Phước. Giáo Hội VN đã hân hoan vui mừng nay lại hân hoan vui mừng hơn. Tất cả mọi người cùng cám tạ ơn Chúa.


Thật ra, Chân Phước An-rê là vị tử đạo có nhiều chứng tá rất giá trị, trong đó có vị thừa sai Dòng Tên nổi tiếng là giáo sĩ Đắc Lộ (Alexandre de Rhodes). Ngay sau khi đầu thầy giảng An-rê Phú Yên rơi xuống., Cha đã thu thập các chứng cớ để tiến hành tôn phong người Tôi Tớ Chúa đầu tiên đã dùng cái chết của mình minh chứng cho Đức Giêsu. Cuốn “Cuộc tử đạo oanh liệt của Thầy Giảng An-rê, xứ Đàng Trong là người đãhiếng mạng sống mình vì danh Chúa Giêsu trong Giáo Hội mới này” xuất bản năm 1653 là một bằng chứng.

Quả thật, hơn ai hết, Chân Phước An-rê đã trở thành một Thầy Giảng, một Giáo Lý Viên đầu tiên trong lòng đất Mẹ đã nêu gương mẫu cho các Tín Hữu, đặc biệt là các GLV bằng chính cuộc đời và cái chết của mình khi dâng hiến phục vụ cho Tin Mừng Đức Kitô. Năm 1994, nhân dịp kỷ niệm 350 năm ngày Thầy Giảng An-rê tử đạo, hơn 1500 GLV các giáo xứ trong khắp Giáo Phận Sài Gòn họp mặt tại Vương Cung Thánh Đường Đức Bà tại TP.HCM đã ký tên vào Đơn Xin Thỉnh Nguyện Phong Chân Phước cho Thầy Giảng An-rê Phú Yên.

Để cho tinh thần nhiệt thành vì Tin Mừng Đức Kitô nơi vị Chân Phước được tỏa sáng thêm ra nơi các Tín Hữu, đặc biệt là các GLV, chúng tôi xin đóng góp một vài dữ liệu nhỏ trong việc học hỏi và bắt chước gương sáng của Ngài giữ lòng dân tộc và trong bối cảnh thế giới hôm nay.
Trong khi biên soạn chúng tôi có trưng dẫn một số nguồn tài liệu từ các tác giả trước đây, kính mong các tiền bối cho phép. Đồng thời trong khi hình thành tập sách nhỏ này, có những gì thiếu sót, chúng tôi rất mong sự chỉ bảo.










CHƯƠNG 1
THEO DÒNG LỊCH SỬ
QUÊ XƯA

Ngày nay, Phú Yên là một trong 61 tỉnh thành của VN với diện tích toàn tỉnh là 5.187km2 và tổng dân cư là 743.000 người. Phú Yên có một thị trấn Tuy Hòa và các huyện Đồng Xuân, Sông Cầu, Tuy An, Sơn Hòa, Tuy Hòa, Sông Hinh. Mặc dầu nằm bên dòng Sông Cái hiền hòa như người Mẹ mang về cho đàn con những thuyền đầy cá, những đợt phù sa làm thêm bông lúa trĩu vàng, Phú Yên mang trong mình những thăng trầm thay đổi trước khi thuộc về gia đình VN.

Ngược dòng lịch sử, vào thời dòng Bách Việt đang hình thành cho một giang sơn độc lập trước sức mạnh thống trị của người Hán phương Bắc (khoảng thế kỷ thứ III trước CN cho đến năm 938 sau CN), thì vùng đất Phú Yên thuộc về Việt Thường, một xứ sở mà đời nhà Tần người ta gọi là Tượng Quận; sang thời nhà Hán người ta gọi là Nhật Nam. Về sau (khoảng thế kỷ II, IV sau CN) vùng đất này bị nước Lâm Ấp ở phía Nam tiến quân lên chiếm giữ. Sang thế kỷ thứ V và VI, chủng tộc Chiên Thành trở nên hùng mạnh. Họ tiêu diệt nhà nước Phù Nam. Tiếp theo, Chiêm Thành chiếm đất Lâm Ấp. Từ đó, vùng đất này thuộc về người Chiêm cho đến thế kỷ XV.

Năm 1471, Vua Lê Thánh Tông (1460-1497), hiệu Hồng Đức, cửa đại binh hơn 20 vạn sang đánh vua nước Chiêm Thành là Trà Toàn. Vua Chiêm Thành đại bại và bị bắt tại thành Đồ Bàn. Vua Lê Thánh Tông chiếm được vùng đát Quy Nhơn, Bình ĐỊnh đến tận sông Phan Rang. Thanh thế nước Đại Việt lừng lẫy. Để chứng tỏ sức mạnh và uy thế trên vùng lãnh thổ vừa lấy được, vua Lê Thánh Tông cho khắc vào núi Thạch Bi, gần đèo Cả, một tuyen ngôn khẳng định với các nước lân bang rằng đây là vùng ranh giớ cuối cùng giữ người Chiên Thành và người Việt “Chiêm Thành qua đây, quân thua nước mất. An Nam qua đấy, tướng chết quân tan”. Lãnh thổ của Đại Việt lúc đó chỉ có 12 đạo hay còn gọi là 12 thừa tuyên. Vùng đất mới này được vua Lê Thánh Tông sát nhập lại để lập ra đạo thứ 13 là Quảng Nam thừa tuyên gồm có 6 phủ: Thăng Hoa (Quảng Nam bây giờ), Tư Nghĩa (Quãng Ngãi), Hoài Nhơn (Qui Nhơn), Phú An (Phú Yên), Thái Ninh (Khánh Hòa), , Hòa Thuận (Phan Rang). Sau đó. Lê Thánh Tông rút đại quân về phía Bắc, để lại vùng lãnh thổ này hơn 5.000 người gồm một số binh lính tự nguyện và các nhân đinh muốn lập nghiệp ở vùng đất mới này. Tuy nhiên, vùng đất này vẫn chưa thuộc hẳn về người Việt vì người Chiêm Thành thường đưa quân sang cướp phá hầu chiếm lại.

Năm 1558, nghe theo lời khuyên của Nguyễn Bỉnh Khiêm “Hoàng Sơn nhất đái, vạn đại dung thân”, Nguyễn Hoàng xin vào trấn giữ vùng Thuận Hóa để tránh sự hiềm khích của họ Trịnh đang tiếm quyền nhà Lê. Cùng đi với Nguyễn Hoàn có nhiều quan chức, nghĩa dũng và rất nhiều cư dân ở hai tỉnh Thanh Hóa và Nghệ An. Từ lúc đó, Nguyễn Hoàn tập trung nhân lực, tài lực mở mang vùng đất phía Nam này để vừa phòng chống ngoại xâm vừa đề phòng sự tấn công từ phía nhà họ Trình đang lấn át vua nhà lê ở phía Bắc.
Do Chiêm Thành luôn khuấy phá vùng Bình Định, Qui Nhơn, năm 1611 Nguyễn Hoàn đem quân chinh phạt lấy đất lập ra phủ Phú Yên cho thuộc dinh Quảng Nam và đặt quan chủ sự là Văn Phong cai quản. Vì là vùng đất chiến lược ở phía nam, Nguyễn Hoàn cho chiêu mộ dân đinh từ các miền Quảng Nam, Quảng Ngãi, Qui Nhơn đến lập nghiệp và cho hưởng chính sách rất ưu đãi về ruộng đất, thuế khóa: người dân có quyền sở hữu trên phần đất do sức khai phá của mình; được miễn nộp thuế. Một số binh lính xin ở lại cũng được hưởng chính sách đó.

Năm 1613, Nguyễn Hoàn mất. Người con thứ 6 là Nguyễn Phúc Nguyên tức Chúa Sãi (1613-1635) lên nối nghiệp Cha. Năm 1629, vùng đất Phú Yên lại nổi cơn binh đao. Quan chủ sự tên là Văn Phong tại Phú yên cấu kết với người Chiêm Thành làm phản. Chúa Sãi cử phó tướng Nguyễn Phúc Vinh mang đại binh dẹp loạn. Văn Phong cùng quân Chiêm Thành bị đánh bại, Sau đó Chúa Sãi sai đắp đồn lũy kiên cố là lập vùng này thành Dinh Trấn Biên giao cho Nguyễn Phúc Vinh làm quan trấn thủ. Vùng Phú Yên trở thành tuyến đầu của lãnh thổ nhà Nguyễn trong cuộc nam tiến.

Phú Yên cuãng được nhắc đến trong tác phẩm Xứ Đàng Trong năm 1621 của Cristophoro Borri, Renran lúc đó là một trong 5 tỉnh thuộc Đàng Trong (Cauchinchine) dưới quyền của Chúa Nguyễn. Tỉnh thứ nhất là nơi Chúa Nguyễn ở ngay sát Đàng Ngoài (hay còn gọi là Tonkin) là Thuận Hóa. Tỉnh thứ hai kaf Cacciam (thành Chiêm hay Quảng Nam). Tỉnh thứ ba là Quamguia (Quảng Ngãi). Tỉnh thứ tư là Quingnim (Qui Nhơn). Tỉnh thứ năm là Renran hay Ranran (Dinh Phú An hay Phú Yên). Chính vùng đất này đã sản sinh ra một người con Đất Mẹ mang trong mình hạt giống đức tin. Mà đã dùng chính dòng máu mình chứng cho niềm tin ấy.

BỐI CẢNH TÔN GIÁO

I/ VĂN HÓA

Văn hóa được định nghĩa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tình lũy qua các quá trình hoạt động thực tiễn trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội của mình. Người Việt có một nền văn hóa truyền thống nông nghiệp lâu đời gắn liền với cây lúa nước. Người dân nông nghiệp sống phụ thuộc rất nhiều vào thiên nhiên, mô trường. Họ tôn trọng, hòa hợp với thiên nhiên để sinh tồn. Thiên nhiên đây chính là những hiện tượng xảy ra trong trời đất liên qua trực tiếp đến đời sống nông nghiệp.

Trông trời, trông đất, trông mây
Trông mưa, trông gió, trông ngày, trông đêm
Trông cho chân cứng đá mềm
Trời yên bể lặng mới yên tấm lòng

Từ mối qua hệ mật thiết đó, người Việt thường có quan niệm độc đáo về thế giới quan: Trời là Cha, Đất là Mẹ. Sự tích bánh Dầy (tròn) – bánh Chưng (vuông) là cách thức thể hiện tâm thức văn hóa đầy hình tượng lẫn triết lý sống của họ. Tôn trọng Trời – Đất là tôn trọng Đấng Tối Cao. Tôn trọng Trời – Đất đi liền với việc thảo kính ông bà, Cha mẹ. Chính nhờ nhận thức nền tảng này mà người Việt dễ dàng tiếp nhận những giá trị luân lý, đạo đức từ những tôn giáo khác.

Về cách ứng xử, quan hệ trong cộng đồng, cư dân nông nghiệp thường theo nguyên tắc trọng tình. Xóm giềng sống cố định lâu đời với nhau thường mong muốn có sự cảm thông, chia sẻ, hòa thuận. Trong các mối quan hệ xã hội, cộng đồng, tình nghĩa được đề cao: Một bồ cái lý không bằng một tý cái tình. Lối sống thiên về tình cảm này dẫn con người đến thái độ ứng xử trọng đức, trọng văn, trọng phụ nữ.

Về cách tổ chức cộng đồng, vì luôn mãi thích nghi với môi trường thiên nhiên để sống còn, người dân nông nghiệp chuộng cách sống linh hoạt, biến báo. Giống như nước, một vật thể thiết yếu quen thuộc của cuộc sống nông nghiệp, là hình ảnh tiêu biểu cho sự thích ứng. Nước lấy hình dạng của vật thể chứa nó nhưng không đánh mất bản tính của nó. Do vậy, người Việt luôn biến báo sao cho thích hợp với từng hoàn cảnh cụ thể: Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài.

Nhìn chung nền tảng văn hóa nông nghiệp đã tạo cho người Việt có thái độ dung hợp trong tiếp nhậnhiếu hòa, mềm dẻo trong đối phó. Đối với những cuộc chiến tranh xâm lượt trong suốt quá trình dựng nước và giữ nước, người Việt tồn tại được là nhờ sự mềm dẻo. Trong lịch sử VN không có chiến tranh tôn giáo. Mọi tôn giáo trên thế giới đều được người Việt đón nhận như Nho Giáo, Đạo Giáo, Phật Giáo, Thiên Chúa Giáo. Những tôn giáo này đã có chỗ đứng tại VN.

II/ TÔN GIÁO

Xuất phát từ hình thái sản xuất nông nghiệp, người Việt rất gần gũi với Trời mà đối với họ là một đấng Tối Cao và Tối Linh. Có thể nói rằng: ý niệm tôn giáo truyền thống sâu rộng nhất của dân tộc Việt là Thờ Trời. Những nhà nghiên cứu, những nhà tôn giáo học đều chung một nhận xét đó. Léopold Cadière, một nahf Linh Mục và một nhà Việt Nam học đã viết: “Hình như những ý nghĩa chúng ta gán cho chữ TRỜI thuộc về cái vốn triết học riêng của dân tộc VN, vì ý niệm Trời đã ăn sâu vào trong tâm hồn người dân VN. Trời coi như nguyên lý các hiện tượng thời tiết và nhân cách hóa, Trời coi như một Đấng Toàn Năng có ảnh hưởng vào vận mệnh của loài người. Nếu có sự nghi ngời, thì chỉ đối với ý nghĩa sau rốt ấy. Người ta có thể thừa nhận như tôi tưởng, là cái ý nghĩa một Đấng Toàn Năng đã được trao dồi phát triển với ảnh hưởng các tư tưởng Trung Hoa. Nhưng ngay từ khởi thủy, trong ý thức VN đã sẵn có mầm mống của ý niệm ấy rồi. Bằng chứng như tôi đã nói, là cái ý niệm ấy đã thấm nhuần quá sâu vào tâm hồn VN, và biểu hiện quá phổ thông trong ngôn ngữ bình dân đẽ cho người ta có thể nhìn thấy ở đấy chỉ là cống hiến ngoại lai. Những ý tưởng Phật Giáo, những ý tưởng Nho Giáo, theo quan điểm lịch sử chắc chắn từ Trung Hoa du nhập đến, đã không thấm nhuần vào đời sống tâm hồn, vào ngôn ngữ bình dân đến mức độ ấy được”.

Trống Đồng là một di tích văn hóa của người Việt cổ thời văn minh Âu Lạc cho thấy tổ tiên ta đã có một nhận thức về TRỜI rất xác thực. Ở chính giữa mặt trống là hình Mặt Trời có mười sáu cánh hay mười sáu tia. Chung quanh hinh Mặt Trời là những hình hoa văn diễn tả môi trường sống, hoạt động, chiến đấu, là động để sống còn của người Việt cổ. Tất cả những cảnh tượng sống động này như cuốn hút vào hình Mặt Trời ở giữa, ngụ ý rằng Mặt Trời là nền tảng cảu tất cả mọi hoạt động của họ.

Từ ấu thời, con người đã được Cha ông mình dạy cho biết vũ trụ có nguồn gốc từ đâu:

Ông đếm cát
Ông tát bể
Ông kể sao
Ông đào sông
Ông trồng cây
Ông xây núi...

Người xưa tin có Trời. Đối với họ, khái niệm tự hữu, hằng hữu không thành vấn đề. Họ thấy mình không có quyền hạn gì về thuộc tính thần thiêng, về nguồn gốc của trời.

Thấy anh hay chữ
Em hỏi thử đôi lời
Thuở tạo thiên lập địa
Ông Trời Tròn ai xây?

Người Việt Nam gọi trời là Thiên trong kho tàng ngôn ngữ của mình. Chữ Thiên gồm chữ nhất đặt trên chữ đại có nghĩa là TRỜI là Đấng Tối Cao, là Đấng Siêu Việt, vượt trên tất cả mọi thực tại hữu hình và vô hình ở trần thế này.

Nước non là nước non Trời
Ai cắt được nước ai dời được non

Như thế, Trời là niềm tin cơ bản hay Tín Ngưỡng Dân Gian của người Việt. Với cách ứng xử dung hợp trong tiếp nhận hiếu hào, mềm dẻo trong đối phó người Việt sẵng lòng đón nhận những tinh hoa, cái đẹp của các nền văn hóa khác nhất là những tôn giáo trên thế giới như Khổng Giáo, Phật Giáo, Thiên Chúa Giáo. Những tôn giáo này được du nhập vào nước Việt bằng những cách thức khác nhau. Khổng Giáo dù được áp đặt truyền vào nước Việt bởi người Hán trong thời Bắc thuộc (năm 111 TCN đến năm 938 sau CN) như là chính sách đồng hóa, người Việt trái lại đã không bị đồng hóa mà còn biến những giá trị Khổng Nho thành của riêng mình trong cách ứng xử, quan hệ gia đình xã hội. Phật Giáo du nhập vào nước Việt trong thời gian bị người Hán đô hộ. Nhưng mãi đến thời nước Việt được tự chủ, đặc biệt thời nhà Lý (1010 - 1225), Phật Giáo mới phát triển mạnh nhờ sự hỗ trợ từ phía các nhà nước phong kiến. Theo dòng lịch sử của nước Việt, Thiên Chúa Giáo từ Phương Tây, dù muộn hơn, cũng đã được người Việt đón nhận nhờ những điểm tương đồng giữa giáo lý của tôn giáo này cùng với nhận thức và cách thức ứng xử của người Việt về Trời.

CỘNG ĐOÀN TIÊN KHỞI

Chuyến mạo hiểm theo đường biển vòng qua mủi Hảo Vọng Giác (cực nam Châu Phi) đến Ấn Độ của Vasco de Gama năm 1498 mở ra một cuộc chinh phục, thám hiểm đất đai của các nước phương Tây đối với miền đất phương Đông đầy bí ẩn này. Nước mở đầu cho cuộc chinh phục mạo hiểm để tìm đường thông thương mua bán giữa Đông và Tây là Bồ Đào Nha, kế tiếp là Tây Ban Nha. Các đoàn truyền giáo được thành lập tại Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha để thực hiện lời mời gọi của Thầy Chí Thánh: “Các con hãy đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng cho muôn dân” (Mc 16,15). Thế là trên cá tàu buôn phương Tây người ta thấy xuất hiện những vị Giáo sĩ, Tu sĩ. Họ lên đường để gieo hạt giống tin mừng.

Lật lại những trang đầu của lịch sử Giáo Hội Công Giáo VN, chúng ta thấy có những sự kiện khác đáng quan tâm:

Mở đầu cho Tin Mừng cứu độ do Chúa Giêsu thực hiện là cây Thánh Giá được dựng lên trên đồi Golgotha. Điều đó có nghĩa là để được ơn cứu rỗi phải có sự hy hiến. Sự hy hiến hoàn hảo nhất là chết cho người mình yêu như Thầy Chí Thánh đã thực hiện xưa. Lịch sử Giáo Hội Công Giáo VN cũng mang sự bí nhiệm đó. 
Năm 1523, Duarte-Coelho được sai làm sứ giả để điều đình một cuộc giao thương giữa người Việt và người Bồ. Nước Đại Việt (quốc hiệu nước ta thời đó) lúc bây giờ đang ở trong một tình cảnh rất phức tạp, hỗn loạn: tam phân. Nhà Mạc trấn giữ phía Bắc. Chúa Trịnh lộng quyền với chiêu bài phò Lê diệt Mạc làm chủ vùng đất Tây Đô ngày xưa (từ Thanh Nghệ Tĩnh đến Hà Nội). Nhà Nguyễn lọ sợ thế lực nhà Trịnh nên có ý xin xuống trấn giữ vùng phía Nam, củng cố lực lượng, mở mang biên thùy để sau này xưng vương tại đó. Khi Duarte-Coelho đến Đại Việt thì lúc đó Mạc Đăng Dung đang đem quân đánh họ Trịnh tại Thanh Hóa. Trong trận này, Trịnh Tuy thua chết. Vua Lê Chiêu Tông bị bắt đem về giam ở Đông Hà (thuộc huyện Thọ Xương), rồi sau đó bị giết chết. Duarte-Coelho không biết phải gặp đại diện nước Đại Việt là ai, cuối cùng ông đành phải rút lui. Trước khi ra đi, ông có dựng một cây Thánh Giá lớn để ghi dấu. Ba mươi ba năm sau (1556), Fernão Mendez Pinto, tu sĩ Dòng Tên, qua bờ biển VN gặp thấy cây Thánh Giá này ở cù lao Chàm (Đà Nẵng). Chính cây Thánh Giá này do Duarte-Coelho tạc trên đá lớn. Trên hình Thánh Giá có khắc bốn chữ I.N.R.I., và ghi năm đến nước Đại Việt cùng tên tuổi của ông.

Đặc biệt một chứng từ trong sách Khâm Định Việt Sử Thâm Giám có ghi: “Năm Nguyên Hòa đời vua Lê Trang Tông (tức năm 1553), có một người Tây Dương tên là I-nê-khu theo đường biển lớn đến truyền đạo Gia-Tô ở các làng Ninh Cường, Quần Anh, Trà Lũ thuộc tỉnh Nam Định.”

Kế tiếp, trong cuốn gia phả họ Đỗ, làn Bồng Trung, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa, thì con thứ ba của cụ Đỗ Trung Kính tên là Đỗ Hưng Viễn là người theo đạo Hoa Lan (đạo Gia Tô) dưới triều đại vua Lê Anh Tông (1566-1573).


Ngày 18 tháng 1 năm 1615, Cha Buzomi và Cha Carvalho cùng một số thầy dòng Tên người Nhật đến của Hội An (Faifo). Các ngài bắt đầu công việc truyền giáo bằng việc xây dựng một ngôi nhà thờ đầu tiên tại Hội An để kịp tổ chức Tuần Thánh và mừng lễ Phục Sinh năm đó (1615). Số giáo hữu tham dự là mười người, phần lớn là các thương nhân người Bồ và người Nhật. Cũng có một vài người Việt. Một năm sau (1616), ngôi nahf thờ thứ hai ở Quảng Nam được dựng nên và số người Việt trở lại đạo Công Giáo trong vùng là 300 người. Có thể trong những tín hữu tiên khởi này, có song thân của chàng thanh niên vùng Phú Yên.




Tên Thánh Họ và Tên Giáo Họ Cộng Đoàn Tu Nơi Phục vụ
1 Thầy An tôn Nguyễn Ngọc Quang Xuân Phong Giáo Phận Phú Cường Giáo Phận Phú Cường
2 Linh Mục Giuse Đặng Đình An Xuân Phong Giáo Phận Bà Rịa Chánh Xứ Đức Mỹ - Giáo Phận Bà Rịa
3 Linh Mục Đa Minh Hoàng Quốc Hùng Xuân Phong Giáo Phận Bà Rịa Họ Đạo Thánh Tâm - Giáo Phận Bà Rịa 
4 Nữ tu Anna Nguyễn Thị Hồng Thắm Xuân Phong Phan Sinh Thừa Sai Đức Mẹ Ba Lan
5 Linh Mục Phê rô Đậu Văn Minh Xuân Phong Dòng Phan xi cô Cộng Đoàn Phan xi cô Bình Giã
6 Nữ tu Theresa Cao Thị Cúc Hoa Xuân Phong Phan Sinh Thừa Sai Đức Mẹ Cà Mau
7 Thầy Đa Minh Cao Đức Lợi Xuân Phong Dòng Thiên Ân - Huế Giáo Phận Huế
8 Nữ tu Theresa Cao Thị Quý Xuân Phong Hội Dòng Mến Thánh Giá - Nha Trang Giáo Phận Phan Thiết
9 Thầy Giuse Đoàn Hùng Tiến Xuân Phong Dòng Phan xi cô Quận 9 - Sài Gòn
10 Linh Mục An rê Lê Hồng Xuân Phong Dòng Thánh Thể Rạch Giá
11 Nữ tu Theresa Cao Thị Hoài Hương Xuân Phong Mến Thánh Giá Tân Việt Mến Thánh Giá Tân Việt - Sài Gòn
12 Nữ tu Theresa Hoàng Thị Phước Xuân Phong Hội Dòng Mến Thánh Giá - Nha Trang Giáo Phận Phan Thiết
13 Nữ tu Maria Đậu Thị Huệ Xuân Phong Hội Dòng Mến Thánh Giá - Nha Trang Giáo Phận Phan Thiết
14 Linh Mục An tôn Nguyễn Quý Hải Nghi Lộc Giáo Phận Phan Thiết Tu Đoàn Bác Ái Xã Hội
15 Linh Mục An tôn Đinh Bá Cẩn Nghi Lộc Dòng Chúa Cứu Thế Giáo Phận Phan Thiết
16 Nữ tu Maria Nguyễn Xuân Bích Thu Nghi Lộc Dòng Đa Minh Giáo Phận Xuân Lộc
17 Nữ tu Maria Nguyễn Xuân Bích Trang Nghi Lộc Phan Sinh Thừa Sai Đức Mẹ Giáo Phận Sài Gòn
18 Nữ tu Theresa Nguyễn Thị Mỹ Hân Nghi Lộc Hội Dòng Chúa Quan Phòng Cần Thơ
19 Nữ tu Anna Nguyễn Thị Lệ Trân Nghi Lộc Hội Dòng Chúa Quan Phòng Giáo Phận Bà Rịa
20 Linh Mục Paul Lê Quang Luân Nghi Lộc Giáo Phận Phan Thiết Giáo xứ Phú Lâm - Giáo Phận Phan Thiết
21 Linh Mục Phanxico Đinh Huỳnh Phùng Nghi Lộc Giáo Phận Bà Rịa Chánh xứ Kim Long - Giáo Phận Bà Rịa
22 Nữ tu Anna Đinh Thị Đồng Nghi Lộc Hội Dòng Chúa Quan Phòng Cần Thơ
23 Nữ tu Theresa Phạm Thị Thu Hằng Nghi Lộc Phan Sinh Thừa Sai Đức Mẹ SriLanCa
24 Linh Mục Joan baotixita Đính Tiến Hường Nghi Lộc Giáo Phận Xuân Lộc Chánh xứ Bắc Hà
25 Nữ tu Anna Đinh Thị Thế Nghi Lộc Hội Dòng Mến Thánh Giá
26 Linh Mục Phanxico Đinh Tiến Đường Nghi Lộc Giáo Phận Phan Thiết Chánh xứ Đồng Tiến
27 Linh Mục Phê rô Nguyễn Tín Nghi Lộc Dòng Phan xi cô Đà Lạt
28 Linh Mục Phê rô Nguyễn Đình Dung Nghi Lộc CV. Thừa Sai Đức Tin Phú Cường Giáo Phận Vinh
29 Linh Mục Phê rô Nguyễn Hùng Hải Nghi Lộc Du học Rô Ma
30 Nữ tu Anna Đinh Thị Hòe Nghi Lộc Cộng Đoàn Mến Thánh Giá  Giáo Phận Bà Rịa
31 Linh Mục Phanxico Lương Quang Cường Nghi Lộc Giáo Phận Xuân Lộc Du học Canada
32 Linh Mục Joan baotixita Phan Kế Sự Nghi Lộc Giáo Phận Xuân Lộc Giáo Phận Xuân Lộc
33 Linh Mục Phanxico Nguyễn Kim Phùng Nghi Lộc Dòng Chúa Cứu Thế Giáo Phận Hà Nội
34 Nữ tu Anna Nguyễn Thu Trúc Gia Hòa Phan Sinh Thừa Sai Đức Mẹ Cà Mau
35 Nữ tu Theresa Nguyễn Thị Thu Trang Gia Hòa Thừa Sai Thánh Tâm Huế Giáo Phận Huế
36 Nữ tu Maria Trần Thị Lý Gia Hòa Phan Sinh Thừa Sai Đức Mẹ Giáo Phận Sài Gòn
37 Nữ tu Theresa Nguyễn Thị Mỹ  Gia Hòa Thừa Sai Thánh Tâm Huế Giáo Phận Huế
38 Nữ tu Maria Nguyễn Thị Thùy Hương Gia Hòa Phan Sinh Thừa Sai Đức Mẹ Nhật Bản
39 Linh Mục Giuse Võ Công Tiến Gia Hòa Giáo Phận Bà Rịa Chánh Xứ Hòa An
40 Nữ tu Maria Bạch Thị Hòa Gia Hòa Nha Trang
41 Nữ tu Maria Bạch Thị Thu Hà Gia Hòa Nhật Bản
42 Nữ tu Maria Nguyễn Thị Huy Gia Hòa Phan Sinh Thừa Sai Đức Mẹ Xuyên Mộc - Giáo Phận Bà Rịa
43 Linh Mục An tôn Nguyễn Tiến Hiền Gia Hòa CV. Thừa Sai Đức Tin Phú Cường Giáo Phận Phú Cường
44 Linh Mục Pet Võ Văn Nam Đông Yên Giáo Phận Cần Thơ Cần Thơ
45 Nữ tu Anna Võ Thị Phương Thảo Đông Yên Nữ Tử Bác Ái Giáo Phận Xuân Lộc
46 Thầy Gia Cô Bê Đặng Đình Minh Thăng Đông Yên Dòng Donbosco Nizêria
47 Nữ tu Theresa Nguyễn Thị Hiếu Thuận Đông Yên Hội Dòng Chúa Quan Phòng Giáo Phận Bà Rịa
48 Nữ tu Anna Nguyễn Kim Thảo Đông Yên Dòng Nữ Tử Bác Ái
49 Thầy Gioan Nguyễn Vinh Sơn Đông Yên Dòng Xi Tô Phước Lý Giáo Phận Xuân Lộc
50 Nữ tu Anna Nguyễn Thị Quỳnh Như Đông Yên Dòng Chúa Quan Phòng
51 Linh Mục Phê rô Đặng Đình Sĩ Đông Yên Dòng Phan xi cô Giáo Phận Vinh
52 Linh Mục Phê rô Ngô Xuân Đông Phú Linh Giáo Phận Bà Rịa Chánh Xứ Mân Côi
53 Nữ tu Anna Ngô Thị Vân Phú Linh Nữ Tử Bác Ái Cần Thơ
54 Nữ tu Anna Nguyễn Thị Sương Phú Linh Ấn Độ
55 Nữ tu Anna Nguyễn Thị Bích Thủy Phú Linh Dòng Chúa Quan Phòng Kiên Giang
56 Nữ tu Nguyễn Thị Mỹ Linh Giáo Phận Xuân Lộc
57 Linh Mục Lê Quang Diễn Nghi Lộc Giáo Phận Phan Thiết Xứ Vinh Phú
58 Phanxico Trần Quốc Tuấn Vĩnh Lộc Chủng Sinh Giáo Phận Bà Rịa Học Đại Chủng Viện Giuse
59 Thầy An tôn Nguyễn Đình Bách Khoa  Vĩnh Lộc Dòng Biển Đức
60 Nữ tu Maria Nguyễn Thị Thanh Vĩnh Lộc Phan Sinh Thừa Sai Đức Mẹ
61 Nữ tu Theresa Nguyễn Thị Liên Phương Vĩnh Lộc Dòng Mến Thánh Giá - Bà Rịa Giáo Phận Bà Rịa
62 Nữ tu Maria Nguyễn Thị Hạnh Vĩnh Lộc Dòng Mến Thánh Giá - Bà Rịa Giáo Phận Bà Rịa
63 Thầy Paul Nguyễn Minh Quyền Vĩnh Lộc Chủng Sinh Giáo Phận Bà Rịa Học Đại Chủng Viện Giuse
64 Thầy Phê rô Nguyễn Huy Phương Vĩnh Phước Dòng Đa Minh
65 Thầy Gioan Trần Hoàng Khánh Duy Vĩnh Phước Dòng Xi Tô Phước Lý Giáo Phận Xuân Lộc
66 Linh Mục Giuse Trần Hữu Lâm Vĩnh Phước Giáo Phận Bà Rịa Chánh Xứ Long Điền
67 Linh Mục Phê rô Nguyễn Quang Đại Vĩnh Phước Dòng Xi Tô Phước Lý Bưng Kè - Giáo Phận Bà Rịa
68 Linh Mục Phê rô Trần Thanh Sơn Vĩnh Phước Giáo Phận Bà Rịa
69 Linh Mục Augustino Trần Thanh Hòa Vĩnh Phước Giáo Phận Bà Rịa Chánh Xứ Thiện Phước
70 Nữ tu Maria Trần Lệ Thu  Vĩnh Phước Dòng Đa Minh Tam Hiệp Cộng Đoàn Kim Long
71 Nữ tu Theresa Trần Thị Thịnh An Hà Nữ Tỳ Chúa Ki Tô
72 Thầy Gioan Nguyễn Văn Đức An Hà Tu Hội Nhà Chúa Giáo Phận Sài Gòn
73 Nữ tu Theresa Thái Thị Hoa An Hà Mến Thánh Giá Chợ Quán Giáo Phận Sài Gòn
Linh Mục Simon Hoà Trần Hiếu An Hà Đan viện Xi Tô Phước Sơn 227 Tân Lộc – Phước Hòa – Tân Thành – Bà Rịa – Vũng Tàu
74 Thầy Simon Lê Văn Sinh An Hà Đan viện Xi Tô Thiên Phước 140/10 Trần Phú - Bãi Dâu- Tp.Vũng Tàu
75 Nữ tu Phaolô Lộc Ngô Thị Bình An Hà Đan viện Xi Tô Vĩnh Phước 105/10; Kp. 9; P. Tân Hoà; Tp. Biên Hoà; Tỉnh Đồng Nai
76 Nữ tu Anna Nguyễn Thị Ánh Điệp An Hà Dòng Chúa Quan Phòng Cần Thơ
77 Nữ tu Theresa Nguyễn Thị Kim Loan An Hà Dòng Mến Thánh Giá - Bà Rịa
78 Nữ tu Maria Nguyễn Thị Tú An Hà Mến Thánh Giá
79 Linh Mục Giuse Ngô Sĩ Đình An Hà Dòng Đa Minh Giáo Phận Sài Gòn
80 Linh Mục Giuse Maria Nguyễn Hồng Giáo  An Hà Dòng Phan xi cô Giáo Phận Sài Gòn
81 Nữ tu Anna Nguyễn Thị Hào An Hà Dòng Nữ Tử Bác Ái
82 Linh Mục Giuse Hoàng Văn Khoa An Hà Đài Loan
83 Linh Mục Gioan Baotixita Nguyễn Văn Bình An Hà Giáo Phận Xuân Lộc Chánh Xứ Phú Sơn - Xuân Lộc
84 Linh Mục Phê rô Nguyễn Quốc Hoàng An Hà Giáo Phận Sài Gòn
85 Nữ tu Theresa Hồ Thị Bích Thùy Phi Lộc Dòng Phao Lô Giáo Phận Bà Rịa
86 Nữ tu Theresa Hồ Thị Phương Trang Phi Lộc Dòng Chúa Quan Phòng Giáo Phận Cần Thơ
87 Nữ tu Maria Hồ Thị Thu Hằng Phi Lộc Dòng Mến Thánh Giá Tân Việt - Sài Gòn Giáo Phận Kon Tum
88 Nữ tu Maria Hồ Thị Thu Thảo Phi Lộc Dòng Mến Thánh Giá Tân Việt - Sài Gòn Giáo Phận Sài Gòn
89 Nữ tu Anna Nguyễn Thị Ánh Tuyết Phi Lộc Dòng Phan Sinh Thừa Sai Đức Mẹ Giáo Phận Đà Lạt
90 Nữ tu Anna Trương Thị Nữ Phi Lộc Dòng Chúa Quan Phòng Giáo Phận Cần Thơ
91 Nữ tu Maria Trần Thị Liên Phi Lộc Dòng Chúa Quan Phòng Giáo Phận Cần Thơ
92 Nữ tu Maria Hồ Thị Xuân Phi Lộc Dòng Chúa Quan Phòng Giáo Phận Cần Thơ
93 Nữ tu Lucia Nguyễn Thụy Hoàng Anh Phi Lộc Dòng Mến Thánh Giá Tân Việt - Sài Gòn Giáo Phận Sài Gòn
94 Nữ tu Cecilia Nguyễn Thụy Ngọc Minh Phi Lộc Dòng Mến Thánh Giá Tân Việt - Sài Gòn Du Học Mỹ
95 Nữ tu Maria Hồ Thị Kim Anh Phi Lộc Tu Đoàn Tông Đồ Bác Ái Xã Hội Giáo Phận Phan Thiết
96 Nữ tu Maria Nguyễn Ngọc Mộng Huyền Phi Lộc Dòng Chúa Quan Phòng Giáo Phận Sài Gòn
97 Nữ tu Maria Nguyễn Ngọc Uyên Phương Phi Lộc Dòng Nữ Tử Bác Ái
98 Nữ tu Maria Nguyễn Thị Minh Thùy  Phi Lộc Dòng Mến Thánh Giá Tân Việt - Sài Gòn Giáo Phận Sài Gòn
99 Linh Mục Phao Lô Nguyễn Thanh Hải Phi Lộc Dòng Phan xi cô Giáo Phận Vinh
100 Nữ tu Maria Nguyễn Thị Phương Phi Lộc Dòng Mến Thánh Giá Tân Việt - Sài Gòn Giáo Phận Sài Gòn
101 Nữ tu Anna Nguyễn Thị Chính Phi Lộc Dòng Mến Thánh Giá Tân Việt - Sài Gòn Giáo Phận Phú Cường
102 Nữ tu Maria Trương Thị Hồng Phi Lộc Dòng Mến Thánh Giá Tân Việt - Sài Gòn Giáo Phận Sài Gòn
103 Linh Mục Phê rô Trần Quốc Dũng Phi Lộc Giáo Phận Bà Rịa Du học Rô Ma
104 Linh Mục Phê rô Nguyễn Văn Cường An Hà Giáo Phận Sài Gòn Thủ Đức - Giáo Phận Sài Gòn
105 Thầy Benzamin Nguyễn Tất Pháp Vĩnh Lộc Dòng Phan xi cô Giáo Phận Sài Gòn
106 Linh Mục Gioan Baotixita Nguyễn Văn Bộ Quan Lãng Giáo Phận Bà Rịa TT Bãi Dâu
107 Linh Mục Pet Nguyễn Thái Phúc Quan Lãng Giáo Phận Bà Rịa Xứ Ngãi Giao
108 Linh Mục Pet Phạm Văn Bộ Quan Lãng Dòng Donbosco Gò Vấp Giáo Phận Sài Gòn
109 Nữ tu Theresa Hoàng Thị Thân Quan Lãng Dòng Chúa Quan Phòng Giáo Phận Cần Thơ
110 Nữ tu Maria Nguyễn Thị Thùy Vân Quan Lãng Dòng Phao Lô Giáo Phận Bà Rịa
111 Thầy Paul Nguyễn Thái Thiên Quan Lãng Dòng Phước Sơn Giáo Phận Bà Rịa
112 Linh Mục Gioan Baotixita Lê Quang Sáng La Nham Dòng Ngôi Lời Truyền Giáo Nha Trang Gò Vấp Giáo Phận Sài Gòn
113 Linh Mục Giuse Bùi Văn Lành La Nham Tu Viện Lời Chúa Bình Dương Giáo Phận Phú Cường
114 Thầy Phao Lô Trần Đình Tam Quan Lãng Chủng Sinh Giáo Phận Bà Rịa Đại Chủng Viện Giuse
115 Thầy Joan Bosco Phạm Đặng Trung Minh Quan Lãng Chủng Sinh Giáo Phận Bà Rịa Đại Chủng Viện Giuse
116 Thầy Giuse Nguyễn Thanh Hùng Quy Hậu Chủng Sinh Giáo Phận Bà Rịa Đại Chủng Viện Giuse
117 Thầy Pet Trần Đình Lương Vô Nhiễm Chủng Sinh Giáo Phận Bà Rịa Đại Chủng Viện Giuse
118 Thầy An tôn Hà Xuân Lộc  Bình Thuận Chủng Sinh Giáo Phận Phú Cường Giáo Phận Phú Cường
119 Thầy Pet Hồ Văn Tâm Bình Thuận Thừa Sai Thánh Mẫu Chúa Cứu Thế Giáo Phận Xuân Lộc
120 Nữ tu Theresa Trần Ngọc Quỳnh Như Bình Thuận Dòng Mân Côi Chí Hòa Giáo Phận Sài Gòn
121 Thầy Pet Bùi Văn Nhiên Bình Thuận Thừa Sai Thánh Mẫu Chúa Cứu Thế Giáo Phận Xuân Lộc
122 Nữ tu Theresa Nguyễn Thị Hồng Thúy Bình Thuận Mến Thánh Giá Bà Rịa Giáo Phận Bà Rịa
123 Nữ tu Theresa Đặng Thị Ngọc Dung Bình Thuận Mến Thánh Giá Bà Rịa Giáo Phận Bà Rịa
124 Nữ tu Theresa Đặng Thị Ngọc Hòa Bình Thuận Dòng Đa Minh Giáo Phận Xuân Lộc
125 Nữ tu Anna Rosa Hà Thị Phương Nghi Bình Thuận Dòng Đa Mih Mân Côi Thánh Thể Giáo Phận Sài Gòn
126 Thầy Pet Trần Văn Bình Bình Thuận Dòng Phan xi cô Cộng Đoàn Bình Giả
127 Nữ tu Theresa Trần Thị Công Bình Thuận Mến Thánh Giá Bà Rịa Giáo Phận Bà Rịa
128 Thầy Gioan Baotixita Trần Đức Thống Bình Thuận Dòng Chúa Cứu Thế Nhà Thờ Chúa Cứu Thế - Sài Gòn
129 Nữ tu Theresa Bùi Thị Kim Trang Bình Thuận Dòng Mến Thánh Giá Gò Vấp Giáo Phận Sài Gòn
130 Thầy Gioan Hà Thanh Luân Bình Thuận Dòng Chúa Cứu Thế Giáo Phận Sài Gòn
131 Thầy Gioan Baotixita Bạch Xuân Hiệp Yên Đại Dòng Chúa Cứu Thế Giáo Phận Sài Gòn
132 Nữ tu Maria Võ Thị Tường Vân Yên Đại Tu Hội Nữ Tử Bác Ai Giáo Phận Sài Gòn
133 Thầy Paul Hồ Công Hoan Yên Đại Dòng Chúa Cứu Thế Sài Gòn
134 Nữ tu Anna Trần Thị Đường Xuân Mỹ Dòng Chúa Quan Phòng Hậu Giang
135 Nữ tu Maria Nguyễn Thị Xuân Hồng Xuân Mỹ Đức Mẹ Lên Trời Philippin
136 Thầy Paul Hoàng Xuân Hồng Tín Xuân Mỹ
137 Nữ tu Maroa Loretti Nguyễn Thị Ngọc Lan La Nham Thừa Sai Đức Mẹ Bảo Lộc
138 Nữ tu Anna Nguyễn Thị Hạnh La Nham Nữ Tử Bác Ái Giáo Phận Đà Lạt
139 Nữ tu Anna Trần Thị Chung La Nham Dòng Mẹ Nhân Ái Giáo Phận Sài Gòn
140 Nữ tu Theresa Nguyễn Thị Châu Mỹ Nhân Hòa Dòng Mến Thánh Giá Bà Rịa Giáo Phận Bà Rịa
141 Nữ tu Maria Nguyễn Thị Long Phượng Nhân Hòa Dòng Đức Mẹ phù hộ Giáo Phận Xuân Lộc
142 Nữ tu Maria Nguyễn Thị Nguyện Nhân Hòa Dòng Đa Minh Giáo Phận Xuân Lộc
143 An tôn Trần Văn Biên Nhân Hòa Dòng Phan xi cô Cộng Đoàn Bình Giả
144 Nữ tu Cecilia Lê Nguyễn Thiên Ân Ngọc Sơn Dòng Đức Mẹ phù hộ Giáo Phận Xuân Lộc
145 Thầy Gioan Maria Lê Thanh Thiện Đạt Ngọc Sơn Dòng Chúa Cứu Thế Giáo Phận Sài Gòn
146 Thầy Gioan Baotixita Nguyễn Duy Hành Ngọc Sơn Tu Hội Truyền Giáo Vinh Sơn Đà Lạt
147 Nữ tu M.Theophin Hà Thị Tuyết Hương Nhân Hòa Dòng Chúa Quan Phòng Cần Thơ
148 Nữ tu Anna Nguyễn Thị Ngọc Trinh Nhân Hòa Dòng Đa Minh Tam Hiệp Giáo Phận Xuân Lộc
149 Nữ tu Anna Trần Thị Hiên Nhân Hòa Dòng Mến Thánh Giá Thủ Thiêm Giáo Phận Sài Gòn
150 Nữ tu Anna Hà Thị Bích Nga Nhân Hòa Dòng mân Côi Thánh thể Giáo Phận Xuân Lộc
151 Thầy Phanxico Trần Minh Nhật Tân Bình Thuận Dòng Tông Đồ Ơn Gọi
152 Nữ tu Maria Hàn lệ Thủy Quan Lãng
153 Thầy Phanxico Trần Văn Loan Bình Thuận Dòng Xi Tô Phước Lộc Giáo Phận Bà Rịa
154 Nữ tu Theresa Phan Thị Đức Nhuận Ngọc Sơn Dòng Mến Thánh Giá Bà Rịa Giáo Phận Bà Rịa
155 Nữ tu Anna Hồ Thị Ngọc Mai Bình Thuận Dòng Mân Côi Tân Bình Giáo Phận Sài Gòn
156 Nữ tu Cecilia Hà Kiều Mộng Xuân Bình Thuận Phan Sinh Thừa Sai Đức Mẹ Đa Kao Sài Gòn
157 Nữ tu Theresa Nguyễn Bảo Yến  Quy Hậu Dòng Mến Thánh Giá Tân Lập Giáo Phận Sài Gòn
158 Nữ tu Theresa Nguyễn Thị Bảo Khuyên Xuân Mỹ Dòng Con Đức Mẹ Phù Hộ Giáo Phận Sài Gòn
Nguồn: binhgia.net

Cách đây hơn 1 tuần, ngồi nói chuyện với những người bạn, chúng tôi có một chủ đề khá là ….vĩ mô: Kế hoạch 1 năm tới của bạn là gì? Tôi còn nhớ ngày xưa khi học ĐH, anh em chúng tôi ngồi lại “tám” với nhau là 5 năm tới mình sẽ thế nào? Thế là chúng tôi mỗi đứa viết 5 điều mà mình mong mỏi nhất cho 5 năm sắp đến vào giấy. Rồi chúng tôi trao đổi giấy cho nhau.

Năm năm là một thời gian tương đối dài đối với một đời người nhưng với tuổi trẻ hay quên của chúng tôi ngày ấy thì đi rất nhanh. Cái hẹn 5 năm trôi qua tích tắc, tôi còn nhớ chúng tôi đã gặp lại nhau tại nơi mà chúng tôi đã cùng học ngày xưa và cùng mở các tờ giấy ra. Thật ngỡ ngàng và xúc động, tất cả những cái gọi là kế hoạch của chúng tôi có những cái tưởng chừng như viễn vông hầu như đều đã đạt được hết và ngược lại.

Có thể bạn không phải là người thích sống theo kế hoạch hoặc cho rằng có hoạch định cũng khó mà xảy ra. Tuy nhiên tôi nghĩ, việc lên kế hoạch không chỉ cho bạn những mục tiêu sống mà còn giúp  cuộc sống được diễn ra tốt đẹp hơn, trật tự hơn. Từ kinh nghiệm của tôi, bạn có thể tập thói quen lên kế hoạch từ những việc đơn giản. Bắt đầu từ tuần này nhé:

1. KẾ HOẠCH CHO MỘT TUẦN: 
Có phải bạn đã từng như tôi, là người mỗi sáng đi lam hay ra ngoài không biết chọn bộ quần áo nào? Tôi đã giải quyết được vấn đề này bằng cách lập ra kê hoạch 1 tuần làm gì và tối Chúa nhật chọn ra 5 hoặc 6 bộ trang phục dự kiến cho những ngày sắp tới. Thế là mổi sang cư việc lây bộ định sẵn mà yên tâm đi làm hay đi chơi.

2. KẾ HOẠCH CHO MỘT GIAI ĐOẠN NGẮN: 
Bạn không thể có kế hoạch cho 5 năm,10 năm thì hãy lên kế hoạch cho 1 tháng chẳng hạn. Thử mà xem. Không khó lắm đâu bạn à!

3. NHỮNG KẾ HOẠCH THUỘC VỀ TRÁCH NHIỆM: 
Đó là những kế hoạch mang tính “phải làm” cho người thân, bạn bè và cho chính bạn. Chẳng hạn như: đưa cha mẹ già đi du lịch hay nghĩ dưỡng thậm chí chỉ 1,2 ngày ở vùng biển, làm từ thiện ít nhất mỗi năm một lần, viết nhật ký, chơi thể thao ít nhất một tuần một lần….

4. HÃY VIẾT RA KẾ HOẠCH VÀ….QUÊN NÓ ĐI:  
Hãy thoải mái viết ra những điều mình mong muốn trong một thời gian nhất định và đem cất kỹ. Đúng hẹn, mở ra xem và ở độ tuổi ngày càng chín chắn, bạn sẽ có những kế hoạch thiết thực và ít hão huyền hơn.

CHÚC BẠN 7 NGÀY MỚI THOẢI MÁI VÀ BẮT ĐẰU VỚI NHỮNG KẾ HOẠCH ĐƠN GIẢN NHẤT. BẠN SẼ THẤY NHIỀU NIỀM VUI HƠN TRONG NHỮNG NGÀY CUỐI TUẦN TỚI ĐẤY.



CỎ ĐUÔI GÀ

Cách đây gần một tháng, có một tin tức về nghệ sĩ được phụ nữ (và có thể là cả nam giới) quan tâm đó là tin nữ minh tinh điện ảnh hàng đầu Hollywood Angelina Jolie tiết lộ cô vừa trải qua một cuộc phẫu thuật và điều trị kéo dài hơn 3 tháng để cắt bỏ mô vú. Chính cô đã viết một bài báo về sự kiện này của mình và cho biết, cô vừa phát hiện ra mình mang gien có xác suất ung thư rất cao từ mẹ mình (người đã qua đời vì ung thư). Jolie tiết lộ mình rất hạnh phúc khi được chồng và các con ủng hộ quyết định này của mình. Tôi đọc tin này và không ngừng nghĩ là sẽ cố gắng học được tính tự ý thức của nữ diễn viên này trước khi quá muộn. Có lẽ bạn và cả tôi nữa đã từng ngồi lập danh sách những điều cần ưu tiên quan tâm trong đời. Đó có thể là gia đình, tài chính, tình yêu, hạnh phúc, con cái, sự nghiệp, những nơi cần đến trong đời….và tôi đoán là có cả cái mục sức khỏe. Với tôi, dù cái danh sách đó có dài tới đâu thì cái mục sức khỏe vẫn ưu tiên nằm hàng đầu. Vì sao? Đơn giản là có sức khỏe thì bạn mới có thể thực hiện được những quan tâm còn lại: chăm sóc cha mẹ, người thân, kiếm nhiều tiền, thực hiện những hoài bão và ước mơ đời mình… Chính vì lẽ đó có lẽ là thừa nếu tôi nhắc mình và nhắc các bạn lưu ý duy trì những việc sau trong tuần này và cả đời mình:

 1. VẬN ĐỘNG ÍT NHẤT 30 PHÚT MỖI NGÀY: 

Hãy cố gắng làm gì đó để bạn ra thật nhiều mồ hôi: chạy bộ, đạp xe hay đơn giản là nhảy dây, chống đẩy… Nếu bạn có đến phòng thể dục mỗi ngày thì quá tuyệt. Chưa tính đến yếu tố tăng cường sức khỏe lâu dài, chơi thể thao thường xuyên, bạn sẽ thấy cơ thể mình năng động biết bao, những mệt mỏi tinh thần hầu như biến mất. Tôi là một điển hình. Các bạn nào biết tôi có lẽ điều biết tôi rất “nặng cân” và hơi lười vận động. Nhưng từ giờ tôi đã ý thức hơn về việc thể dục rồi đấy. 

2. TẬP THÓI QUEN KHÁM BỆNH ĐỊNH KỲ: 
Nếu bạn giống như tôi, rất sợ không khí bệnh viện dù chỉ là đến đó để thăm ai đó, hãy bắt đầu với việc khám răng 6 tháng một lần. Phòng nha dù sao cũng ít có “tính đe dọa” hơn các phòng kahm1 khác. Hì. Tôi biết sẽ có nhiều bạn rất khỏe mạnh và chối đây đẩy việc đi khám bệnh (đơn giản vì sợ ….phát hiện ra bệnh) thì đến lúc bạn nên vượt qua nỗi sợ hãi và lười biếng. Ngay bây giờ, hãy làm khó với bản thân trước khi bản thân với chứng bệnh nào đó có khả năng làm khó cuộc sống của bạn đi nào!

 3. CÓ KIẾN THỨC VẦ SỨC KHỎE VÀ DINH DƯỠNG: 
Cố gắng dành ra mỗi ngày ít thời gian để cập nhật các kiến thức vế y tế và dinh dưỡng. Tự chăm sóc sức khỏe bản thân với những thói quen hữu ích trước khi quá muộn. 

CHÚC CÁC BẠN 7 NGÀY MỚI TRÀN ĐẦY NĂNG LƯỢNG, HẠNH PHÚC VÀ THÀNH CÔNG TRONG CUỘC SỐNG. HÃY LUÔN NHỚ RẰNG: “SỨC KHỎE LÀ VÀNG”….






CỎ ĐUÔI GÀ (ý tưởng từ bạn Aivy)

Giá trị cuộc sống
Một vài dòng...

Nhiều năm về trước, một ủy viên chấp hành khá cao tuổi của một công ty dầu lửa đã đưa ra một quyết định sai lầm, làm công ty thiệt hại hơn 2 triệu đôla. John D. Rockefeller lúc đó là người đứng đầu tập đoàn này. Vào cái ngày đen tối mà tin tức khủng khiếp trên được lan truyền ra, hầu hết các nhân viên và ủy viên khác của công ty đều lo lắng và muốn tránh mặt Rockefeller, không ai muốn bị liên lụy gì.




Chỉ trừ có một người, đó chính là ủy viên đưa ra quyết định sai lầm kia. Ông ta là Edward T. Bedford. Rockefeller ngay hôm ấy hẹn gặp Bedford và Bedford rất đúng giờ. Ông ta đã sẵn sàng nghe một "bài diễn thuyết" nghiệt ngã từ Rockefeller.

Khi Bedford bước vào phòng Rockefeller, ông vua dầu lửa đang ngồi cạnh bàn, bận rộn viết bằng bút chì lên một tờ giấy. Bedford đứng yên lặng, không muốn phá ngang. Sau vài phút, Rockefeller ngẩng lên.


- A, anh đấy hả, Bedford?- Rockefeller nói rất bình tĩnh - Tôi nghĩ là anh đã nghe tin những tổn thất của công ty chúng ta rồi chứ?


Bedford đáp rằng ông đã biết rồi.


- Tôi đã suy nghĩ rất nhiều về điều này - Rockefeller nói - Và trước khi tôi nói chuyện với anh, tôi đã ghi ra đây vài dòng. 


Sau này, Bedford kể lại cuộc nói chuyện của ông với Rockefeller như sau:

Tôi thấy rõ dòng đầu tiên của tờ giấy mà ông chủ đã "viết vài dòng" là: "Những ưu điểm của Bedford". Sau đó là một loạt những đức tính của tôi, kèm theo là miêu tả vắn tắt rằng tôi đã giúp công ty đưa ra quyết định đúng đắn được 3 lần, và giúp công ty kiếm được gấp nhiều lần số tiền tổn thất lần này.
Tôi không bao giờ quên bài học ấy. Trong nhiều năm sau, bất kỳ khi nào tôi định nổi cáu với người khác, tôi đều bắt mình phải ngồi xuống, nghĩ và viết ra một bảng liệt kê những ưu điểm của người đó, dài hết sức có thể. Khi tôi viết xong bản đó thì thường tôi cũng thấy bớt cáu rồi.
Không biết là thói quen này đã giúp tôi bao nhiêu lần tránh được những sai phạm tôi có thể có: đó là nổi cáu một cách mù quáng với người khác. Tôi biết ơn ông chủ tôi vì thói quen này, và bây giờ tôi giới thiệu nó cho tất cả các bạn.





Hi!Hai sưu tầm & minh họa






Trong số những việc đạo đức tôn kính Thánh Thể có việc chầu Mình Thánh Chúa. Tại sao gọi là Chầu Mình Thánh? Tục lệ này bắt nguồn từ đâu?

Trong tiếng Hán-Việt, tiếng “chầu” có thể dùng như danh từ hay động từ. Dùng như danh từ, “chầu” ám chỉ một khoảng thời gian (một “buổi”, một “phiên”, một “hồi”), tựa như một chầu hát, một chầu xinê, và đôi khi còn là bữa ăn (thí dụ: đãi một chầu bia). Dùng như động từ, chầu được dùng cách trịnh trọng trong ngôn ngữ cung đình, để ám chỉ cuộc viếng thăm của người dưới đối với người trên (chẳng hạn như: đi chầu vua). Tôi nghĩ rằng khi nói đi “chầu Mình Thánh Chúa” thì chúng ta hiểu theo nghĩa này, tức là một cuộc viếng thăm với lòng cung kính. Tuy nhiên, nếu muốn hiểu rõ ý nghĩa hơn, chúng ta cần phải trở về với lịch sử, bắt nguồn từ tiếng Pháp, “salut du Saint Sacrement”, mà ta có thể dịch nôm na là “chào Mình Thánh Chúa”.

Tại sao lại có tục lệ “chào Mình Thánh Chúa”?
Theo một vài sử gia, nguồn gốc của tục lệ “chào Mình Thánh Chúa” hơi vòng vèo một chút. Nó bắt nguồn từ tục lệ “Chào Đức Mẹ”, rồi sau đó mới kéo dài ra tục “Chào Mình Thánh Chúa”. Dĩ nhiên, ở đây tiếng “chào” mang tính cách hơi chuyên môn, chứ không phải chỉ là chào hỏi khi gặp nhau ngoài đường. Từ thế kỷ XIII, các giờ kinh phụng vụ kết thúc với bài hát “Salve Regina” (trước đây dịch ra sang tiếng Việt là kinh “Lạy Nữ Vương Mẹ nhân lành”; còn bản dịch hiện đại của Sách Các Giờ kinh Phụng vụ là “Kính chào Đức Nữ Vương, Bà là Mẹ xót thương”), ở giờ Kinh Tối. Trong suốt ngày, các tín hữu mắc bận công chuyện làm ăn, cho nên không thể tham dự các giờ kinh nguyện được. Một cơ hội thuận tiện để đến nhà thờ là lúc chiều tối, khi hát kinh Salve Regina, đặc biệt là từ khi các tu viện dòng Đaminh, được cất ở giữa thành phố chứ không phải trên núi non như các đan viện cổ thời. Các tu sĩ dòng Đaminh có thói quen đi rước từ cung nguyện ra thánh đường đang khi hát kinh Salve Regina, và mở cửa cho các tín hữu đến tham dự. Tập tục này bành trướng mau lẹ, đến nỗi các vua chúa (tựa như vua thánh Louis) cũng thu xếp đến nhà thờ hát kinh chào Đức Mẹ. Bài ca này bắt đầu bằng lời “Salve Regina” (tiếng Pháp là “Salut”), với nội dung không phải chỉ là một lời chào hỏi mà còn là một lời cầu khẩn: trước khi lên giường ngủ, người tín hữu muốn ký thác cuộc đời cho Đức Mẹ, và ước mong rằng khi nhắm mắt lìa đời, họ sẽ được Mẹ trỏ Chúa Giêsu cho mình, nghĩa là được dẫn vào thiên đàng.

Bằng cách nào việc “chào Đức Mẹ” đưa tới việc “chào Mình Thánh Chúa”?
Vào thời Trung cổ, lòng sùng kính của các tín hữu đối với Đức Mẹ được biểu lộ qua việc đến tham gia kinh nguyện với các tu sĩ để hát kinh Salve Regina (Kính Chào Nữ Vương). Đồng thời cũng có một phong trào thích nhìn ngắm Mình Thánh Chúa sau khi linh mục đọc lời truyền phép. Các nhà thờ giật chuông vào lúc linh mục nâng cao Mình Thánh và Máu Thánh. Các tín hữu tuốn đến nhà thờ để thờ lạy Mình Thánh Chúa. Trong bối cảnh ấy mà nhiều thánh thi được sáng tác, bắt đầu bằng các lời chào Ave salus mundi, Ave verum Corpus (Kính chào ơn cứu độ thế gian, Kính chào Thánh Thể sinh bởi lòng Đức Trinh nữ Maria). Tuy nhiên, xét vì không thể nào kéo dài lâu việc dâng cao Mình Thánh Chúa trong Thánh lễ được, cho nên người ta mới tổ chức những buổi cầu nguyện khác, mà mục đích là để ngắm nhìn và thờ lạy Mình Thánh Chúa. Những cuộc chào kính Mình Thánh Chúa được bành trướng cách riêng sau khi thiết lập Lễ kính Mình Thánh Chúa, với nhiều thánh thi và thánh ca do thánh Tôma Aquinô đã soạn, tựa như “Lauda Sion Salvatorem” “Pange lingua gloriosi” “Adoro te”.

Phong trào “chào Đức Mẹ” và phong trào “chào Mình Thánh” xuất hiện có liên hệ gì với nhau không?
Cả hai việc sùng kính xuất hiện hầu như đồng thời, và phát triển song hành. Như đã nói, việc chào Đức Mẹ bắt đầu từ một thánh ca kết thúc các giờ kinh nguyện phụng vụ trong ngày. Thế nhưng, dần dần nhiều nơi, người ta tổ chức hát kinh chào Đức Mẹ vào ban chiều, cắt đứt khỏi các giờ kinh nguyện khác. Một cách tương tự như vậy, việc chào Mình Thánh Chúa bắt nguồn từ việc nhìn ngắm Mình Thánh Chúa vào lúc truyền phép trong Thánh lễ; nhưng dần dần được tách rời khỏi Thánh lễ, thành một hành vi phụng tự riêng. Đến một chặng kế tiếp, từ thế kỷ XVI, thì việc chào Đức Mẹ và chào Mình Thánh được chắp nối với nhau, do sáng kiến của các hội đoàn giáo dân. Có nơi thì cử hành việc chào Đức Mẹ vào các ngày trong tuần, và chào Mình Thánh vào Chúa nhật. Có nơi thì gom lại chung với nhau. Có nơi thì kết nạp cả hai với giờ kinh Chiều. Đó là nguồn gốc tục lệ chầu Mình Thánh Chúa vào các chiều Chúa nhật hoặc các buổi chiều trong tuần (khi mà chưa có Thánh lễ ban chiều). Các buổi chầu Mình Thánh kết thúc với việc ban phép lành với Mình Thánh Chúa, và bài ca kính Đức Mẹ.

Ngày nay tại vài nơi còn tổ chức những cuộc chầu Mình Thánh Chúa suốt ngày, chứ đâu phải chỉ vào chiều Chúa nhật mà thôi. Tục lệ này bắt đầu từ đâu vậy?
Với đà tiến triển của lòng sùng kính đối với bí tích Thánh Thể, việc chầu Mình Thánh Chúa tăng gia về thời gian cũng như về thể thức. Một hình thức còn duy trì đến ngày nay là việc chầu Mình Thánh Chúa được cất giữ tại bàn thờ đặc biệt từ Thánh lễ thứ năm tuần thánh cho đến phụng vụ suy tôn Thánh giá ngày thứ 6 Tuần Thánh. Vào lúc đầu, các bánh thánh được cất giữ trong một nhà tạm vì lý do thực tiễn: trong Thánh lễ thứ năm tuần thánh, người ta phải dự trù thêm số bánh thánh đủ dùng vào việc rước lễ vào ngày hôm sau nữa, bởi vì không có Thánh lễ vào thứ 6 Tuần Thánh. Dần dần, lòng đạo đức bình dân phát triển thành việc “làm Giờ thánh”, nghĩa là tháp tùng Chúa Giêsu vào vườn Cây dầu để cầu nguyện, và thậm chí còn kéo dài sang việc suy gẫm cuộc Tử nạn của Chúa Giêsu cho đến lúc chết trên thập giá. Vì thế việc chầu Mình Thánh Chúa không chỉ giới hạn vào sự thờ lạy Chúa Giêsu hiện diện trong Bí tích này, mà còn kèm theo ý nghĩa chia sẻ cuộc Tử nạn. Như đã nói, tục lệ này vẫn còn được duy trì tại nhiều nơi, từ tối thứ năm cho đến chiều thứ 6 Tuần Thánh, trong khoảng thời gian 24 giờ đồng hồ. Dĩ nhiên là không ai có sức canh thức chầu Mình Thánh trong suốt 24 giờ, vì thế các cộng đoàn giáo xứ hay tu viện chia ra từng tốp, hay nhóm thay phiên nhau để chầu Mình Thánh.

Có nơi còn chầu đến 40 giờ nữa, phải không?
Tục lệ chầu Mình Thánh 40 giờ kéo dài thời gian của thứ năm Tuần thánh. Như vừa nói, thời gian chầu Mình Thánh bắt đầu từ sau Thánh lễ tối thứ năm và kết thúc vào chiều thứ 6. Vào thế kỷ XVI, do sự thúc đẩy của thánh Carôlô Borrômêô, tổng giám mục Milanô bên Italia, một tục lệ khác thành hình, đó là chầu Mình Thánh Chúa 40 giờ. Tại sao 40 giờ? Tại vì người ta muốn đi theo Chúa Giêsu từ khi được an táng trong mồ cho đến lúc Phục sinh. Tuy nhiên việc chầu 40 giờ không gắn liền với Tuần thánh nhưng có thể được tổ chức vào bất cứ lúc nào trong năm.

Thế nào là chầu lượt?
“Chầu lượt” có thể hiểu theo nhiều nghĩa. Có thể hiểu theo nghĩa là phân chia các tốp hoặc nhóm thay phiên (hoặc lần lượt, sỉ lượt) nhau chầu Mình Thánh; điều này cần thiết khi trưng bày Mình Thánh Chúa lâu giờ (hoặc 24 giờ hay 40 giờ). Một nghĩa khác nữa là tổ chức các nhóm, hoặc tu viện hoặc giáo xứ, tuy sống cách xa nhau, nhưng họp thành một dây chuyền để chầu Mình Thánh Chúa. Sáng kiến này đã có từ năm 1592, dưới thời đức thánh cha Clêmentê VIII, với sắc chiếu Graves et diuturnae, tổ chức các buổi chầu Mình Thánh 40 giờ nối dài từ nhà thờ này sang nhà thờ khác. Nên biết là vào thời đó, nhiều Dòng tu cũng du nhập tập tục chầu Mình Thánh liên tục 24 giờ mỗi ngày, và bố trí sao cho ít là có 1 hoặc 2 thành viên luôn luôn chầu Mình Thánh Chúa. Điều này giả thiết là cộng đoàn có khá đông tu sĩ. Trước đây người ta không thấy khó khăn lắm để thực hiện, nhưng ngày nay với số ơn gọi giảm sút, ít Dòng tu dám bảo đảm chầu Mình Thánh liên tục 24 giờ trên 24. Điều này cũng xảy ra cách tương tự cho các giáo xứ. Trước đây các phiên chầu lượt kéo dài 24 giờ (hoặc hơn nữa) trước khi chuyển sang cho giáo xứ khác. Nhưng ngày nay thì nhiều giáo xứ chỉ dám bảo đảm chầu Mình Thánh vào ngày Chúa nhật, lễ trọng, chứ vào những ngày trong tuần thì đóng cửa bởi vì người ta bận công ăn việc làm. Mặt khác, dù khi nhận phiên chầu lượt, mỗi giáo xứ cũng chỉ bảo đảm hơn kém 12 giờ đồng hồ, chứ không trọn ngày. Tuy nhiên, chúng ta cũng đừng nên quên rằng sự chầu Mình Thánh liên tục không chỉ được thực hiện trong khuôn khổ của một cộng đoàn tu sĩ hay một giáo phận, nhưng còn kéo dài ra hoàn cầu, nhờ sự nối mạng với đền thờ Montmartre kính Thánh Tâm Chúa Giêsu, ở ngoại ô thành phố Paris bên Pháp. Đành rằng động từ “nối mạng” mới ra đời với kỷ nguyên Internet, nhưng từ năm 1885, ý chỉ này đã nảy sinh, đó là thực hiện việc chầu Mình Thánh Chúa thường trực tại đền thờ này, nhưng đồng thời cũng liên kết với các thánh đường trên thế giới đang chầu Mình Thánh Chúa. Vì thế tuy rằng tại địa phương không thể có sự thờ lạy liên tục được, nhưng qua sự kết hiệp với đền thánh Montmartre, mỗi cộng đoàn tín hữu địa phương có thể khẳng định rằng mình đang tham gia vào một phiên, một lượt chầu Mình Thánh Chúa liên lỉ.

CỎ ĐUÔI GÀ sưu tầm

Author Name

Biểu mẫu liên hệ

Tên

Email *

Thông báo *

Được tạo bởi Blogger.