tháng 7 2013

Bạn biết không? Tôi là người rất thích tiểu thuyết của nhà văn Kim Dung. Tôi có thể xem đi xem lại tiểu thuyết,  nhiều bản dựng phim các tác phẩm của ông hàng mấy chục lần mà không biết chán. Mỗi lần xem là mỗi lần thấy thú vị và có thêm một khám phá mới. Tuần này tôi muốn nói với các bạn một trong những khía cạnh đó mà tôi đã cố tìm hiểu, nghiền ngẫm nhiều lần. Tiểu thuyết của Kim Dung không chỉ đề cao tinh thần võ hiệp, các loại võ công mà điều làm tôi thích thú đó là ông cũng rất đề cao tình yêu nam nữ. Đặc biệt không ít nhân vật nữ trong tiểu thuyết của ông là những người sắc nước hương trởi, võ công cái thế nhưng đôi khi chỉ vì thất tình một đấng nam nhi nào đó mà trở nên hung ác. Điển hình trong số đó là nhân vật Lý Mạc Sầu của truyện Thần Điêu Đại Hiệp với câu nói bất hủ: “Hỡi thế gian tình là gì mà thiên hạ từ ngàn năm trước tới ngàn năm sau phải khổ đau vì tình…”

Nhiều người mô tả tính cách cương cường của các cô gái yêu-ghét phân minh đó là “dám yêu-dám hận”. Tôi tuyệt đối không phải là chuyên gia tư vấn tình yêu nhưng trong tuần này, tôi muốn nói vói bạn rằng tôi tin chúng ta sẽ thanh thản hơn khi là người “dám yêu-không dám hận”. Thay vì ngồi nghĩ cách trả thù tình xưa như Lý Mạc Sầu, chúng ta nên:

1. KHÔNG GIAO DU VỚI NHỮNG NGƯỜI “ĐƯA CHUYỆN”: 
Kiều gì thì bạn cũng muốn tâm sự nỗi buồn tình yêu với người bạn nào đấy và rồi cảm thấy được an ủi khi người bạn kia hùa vào mắng nhiếc người cũ của bạn. Tuyệt đối tránh xa những người tiêu cực như thế bạn nhé! Hãy tin tôi đi: Đời bạn chỉ có thể khá hơn khi gặp gỡ những người lạc quan, vui tính!

2. BƯỚC RA KHÁM PHÁ THẾ GIỚI: 
Hãy thử làm một chuyến du lịch khám phá thiên nhiên ở đâu đó. CHắc chắn thiên nhiên và một chuyến đi thoải mái sẽ là liều thuốc phục hồi trái tim bạn nhanh chóng.

3. HÃY GIẢI TRÍ, HÃY TỤ TẬP BẠN BÈ: 
Đừng ru rú ở nhà mà buồn chán, hãy yêu chiều bản thân, để không có thời gian nghĩ về chuyện buồn và người gây cho mình nỗi buồn đó.

4. LUÔN GIỮ VỮNG LẬP TRƯỜNG “DÁM YÊU-KHÔNG DÁM HẬN”: 
Triết lý này nghe có vẻ hơi…hèn bạn nhỉ? Nhưng có hề gì. Đó là người bạn từng yêu say đắm mà, hận thù có mang người ấy về bên bạn không? Chi bằng chúc phúc cho người ta đôi khi là một cách trả thù ngọt ngào nhất đấy.



CHÚC BẠN 7 NGÀY MỚI THONG DONG VÀ NẾU NHƯ CÓ BỊ TRỤC TRẶC TRONG TÌNH CẢM THÌ HÃY NHỚ TRIẾT LÝ NÀY BẠN NHÉ!!!! 

CỎ ĐUÔI GÀ 

Các bạn thành viên Nhóm Hiệp Nhất rất thân mến!!!
Như các bạn đã biết, sau khi tham khảo ý kiến của Cha Linh Hướng, BĐH Nhóm sẽ tổ chức Trại giao lưu lần đầu tiên của Nhóm chúng ta vào hai ngày 12,13.08.2013 sắp tới. Theo tinh thần của thông báo số 1 thì chúng ta còn đúng 1 tuần nữa cho việc chốt danh sách các thành viên tham dự Hội Trại lần này. Do đó, xin các thành viên nhanh chóng liên hệ với BĐH Cụm, Trưởng đại diện các giáo xứ, giáo họ của mình để nhận thư ngỏ và đăng ký nhanh nhé!!! Đừng để tới những ngày cuối mới đăng ký hay bổ sung sẽ gây khó khăn cho BTC. Vì như chúng ta cũng biết, để tổ chức một cuộc Trại 2 ngày 1 đêm như thế này dành cho các trại sinh ở khắp mọi nơi là vô cùng khó khăn và trở ngại nhiều thứ. Mong các bạn vì tình yêu với Nhóm chúng ta mà thu xếp công việc, học tập.. cộng tác cùng BĐH trong việc này nhé các bạn.

Nhân đây xin nhắc lại một chút về những điều các Thành Viên khi đăng ký tham gia cần biết:

1. Địa điểm: Giáo xứ Sơn Hòa (Hạt Bình Giã).

2. Thời gian: từ 07h ngày 12.08 đến 15h30 ngày 13.08.2013
3. Di chuyển tự túc theo sự hướng dẫn của Trưởng các Giáo xứ, giáo họ mình.
4. Kinh phí: 100.000VNĐ/ người
5. Thời hạn chốt đăng ký: 23h30 ngày 01.08.2013. Qua giờ này BĐH sẽ không nhận thêm bất cứ đăng ký nào, nếu không có sự chuẩn y của Cha Linh Hướng Paul Nguyễn Thanh Vũ.
6. Các bạn sẽ liên hệ với BĐH Cụm của mình để nhận thư ngỏ.
7. Ngoài vật dụng cá nhân cần thiết phải đem theo, các bạn vui lòng mang theo mỗi người 1 cái chén, 1 đôi đũa, 1 cái muỗng. Vì chúng ta sẽ cùng nhau thể hiện kỹ năng nấu nướng của mình.
8. Riêng các thành viên Cụm III (gồm các giáo xứ, giáo họ thuộc Hạt Bà Rịa, Hạt Long Hương, Hạt Vũng Tàu) vui lòng liên hệ với bạn Sinh Tố Bịch,Dũng Ars để đăng ký và nhận thư ngỏ.

Chúng tôi sẽ còn gặp lại các bạn trong những thông báo kế tiếp. Hãy cộng tác cùng chúng tôi các bạn nhé. Tất cả vì Nhóm chúng ta. CHúng tôi đang chờ đợi sự nhiệt thành của các bạn cho vấn đề này.

Thân mến chào các bạn trong tình yêu của Thầy Giêsu!

TM. BAN ĐIỀU HÀNH
CV. JBP-----------------

Cách đây 2 tuần tôi vô tình đọc được một bình luận trong một diễn dàn điện ảnh của một anh chàng kia đề dưới một bộ phim rằng: “ Tại sao có một bộ phim chán như vậy? hãy trả lại cho cuộc đời tôi 100 phút đã mất vì coi bộ phim này”. Tôi thấy rất buồn cười và ngạc nhiên về vụ “đòi nợ” này. Tôi không hiểu sao bạn khán giả đó lại phẫn nộ vì bị “cướp mất” một phần đời, trong khi việc quyết định xem bộ phim ấy là chính bạn đó, chính xác là bạn chứ không phải ai khác đã chọn xem bộ phim ấy, và xem tới hết.
Tôi thấy trên các diễn đàn phim ảnh, ca nhạc hay trên facebook có rất nhiều bạn trẻ hay comment những câu đại để như: “ Đừng xem phim A (phim này dở) hãy xem phim đi đi các bạn (mà phim này chưa công chiếu, chỉ có vài cảnh trailler nên tôi không hiểu sao những bạn đó cứ khăng khăng bảo là hay). Khoan bàn tới chất lượng 2 phim ví dụ trên mà tôi chỉ buồn cười là tại sao các bạn ấy lại cứ bắt mọi người chọn phim B như bạn ấy. Ở đây tôi chỉ muốn nói đến khía cạnh nghệ thuật, biết đâu phim đó bạn thấy hay mà người khác lại thấy dở thì sao.

          Chọn lựa là một trong những động từ mà bạn phải thực hiện nhiều nhất trong cuộc sống. hãy nghĩ xem có phải tất cả những hành động xảy ra đều là sự chọn lựa của chính bạn? bạn chọn yêu người này mà không yêu người kia. Có thể bạn cho rằng do hoàn cảnh đẩy đưa, nhưng nghĩ kỹ xem, thật ra quyết định yêu ai là ở bạn. Rồi bạn chọn ăn sáng bằng bánh mì thay vì phở…. Chúng ta phải luôn chọn lựa. và trong tuần mới này, tôi muốn chia sẻ và gợi ý cới các bạn 3 ý này:

1. KHI ĐÃ LỰA CHỌN, KHÔNG NÊN HỐI HẬN:  
Chắc chắn trong cuộc sống, môi trường sống của bạn không ít lần bạn có những lựa chọn sai lầm dẫn đến những kết quả không tốt. Đừng tự trách và dằn vặt  mìnhmãi vì sai lầm, như người đòi 100 phút trong cuộc đời bị đánh mất ở trên, biết đâu lần sau anh ta có chút kinh nghiệm để xem được phim như ý. Sai lầm thường mang đến cho ta một bài học đáng giá.

2. KHÔNG NÊN TRÁCH BẤT KỲ AI CÓ LIÊN QUAN ĐẾN VIỆC LỰA CHỌN CỦA BẠN:  
Chủ thể cuộc sống của bạn chính là bạn. Bạn sống, bạn thở và bạn tồn tại song hành với những lớn nhỏ trong cuộc sống. Vì thế đừng bao giờ đổ lỗi cho ai hay cho hoàn cảnh khi chính bạn là người đưa ra quyết định cho một vấn đề.

3. HÃY THÔNG CẢM VỚI LỰA CHỌN CỦA NGƯỜI KHÁC: 
Không nên chỉ trích ai đó và cho rằng họ có sự lựa chọn sai lầm, thậm chí lựa chọn đó bạn có liên đới. CHỉ khi nào là người đó, bạn mới hiểu vì sao họ có những quyết định như vậy.




CHÚC BẠN 7 NGÀY MỚI NHIỀU NIỀM VUI VÀ CÓ NHỮNG LỰA CHỌN ĐÚNG ĐẮN CHO RIÊNG MÌNH



CỎ ĐUÔI GÀ

Ngày kia một giáo sư già đi chơi qua khu rừng, bên cạnh có cậu học trò cùng đi. Thình lình ông dừng chân chỉ vào bốn cây gần đó; cây thứ nhất mới ló lên khỏi mặt đất, cây thứ hai khá hơn cây thứ ba lớn hơn, cây thứ bốn đã khá to rồi.Trò hãy nhổ cây thứ nhất.

Chỉ với hai ngón tay, cậu đã nhổ dễ dàng

Bây giờ hãy nhổ cây thứ hai - cậu phải dùng cả cánh tay

Nhổ cây thứ ba - cậu phải dùng hết sức lực hai cánh tay lay mãi mới nhổ được.

Bây giờ hãy nhổ cây thứ tư - hai cánh tay ôm ghì lấy thân cây, cậu cố sức lay nhưng lá nó cũng chẳng rung rinh

Đó con thấy không? về các tính hư, tật xấu của ta cũng vậy, khi mới nhiễm thì dễ khử trừ nhưng nếu để chúng đâm rễ sâu trong tâm khảm, trong thân xác các con sẽ khó mà khử trừ.

CỎ ĐUÔI GÀ Sưu tầm





Một giả định để ai đó chợt nhận ra những gì đã, đang và sẽ xảy ra xung quanh mình với cái nhìn khác, cái nhìn của mình nhưng không hẳn cho mình, để hiểu rõ hơn những người bạn, dẫu cho mọi người vẫn thường thốt lên "giá mà..." khi thứ gì đó qua đi.

Còn tôi và bạn, ngày hôm qua vẫn có thể là ngày hôm nay hoặc ngày mai bởi đơn giản chúng ta là bạn. Và nếu tôi không phải là tôi, nếu tôi là bạn... thì liệu tôi có hành động như bạn không? Chắc cũng vậy thôi, nhưng sao không thử một lần giả định nhỉ?

Những gì đã xảy ra cho bạn, cho tôi hay bất kỳ ai khác, tất cả giờ đã là quá khứ. Một quá khứ không bao giờ tìm lại được, một tương lai không thể nào xác định được. Nhưng hiện tại thì bắt đầu từ quá khứ và là cầu nối đến tương lai.

Nếu tôi là bạn, tôi sẽ không bao giờ cố giấu hay kìm nén những cảm xúc đối với ai đó để rồi suốt ngày phải chạy trốn chính bản thân mình, cùng hàng trăm, hàng nghìn sự lựa chọn mà trong đó không có sự lựa chọn nào dành cho riêng bạn. Còn nếu vì lý do nào đó, thì tôi cũng sẽ đặt nó ở vị trí sâu kín nhất trong tâm hồn để thoải mái hơn mỗi khi đương đầu với bản thân mình.

Nếu tôi là bạn, tôi đã không bao giờ trách bạn mình là "đồ tồi" chỉ bởi lý do mà... chỉ bạn mới biết. Dẫu rằng nó sẽ được bỏ qua nhưng dường như một hố sâu vô hình được dựng lên mà không cách nào vượt qua được. Một chiếc cốc thuỷ tinh đã vỡ làm sao có thể hàn gắn nguyên vẹn như lúc ban đầu, dù người thợ có khéo léo đến cỡ nào.

Nếu tôi là bạn, tôi sẽ không suốt ngày ấp ủ những ảo tường mà chỉ có mỗi bạn vẽ ra.Tôi sẽ chia sẻ nó cho mọi người đặc biệt là những người bạn, kể cả khi tôi có thể nhận về những điều không thực sự mong đợi. Khi bạn mở lòng mình, bạn sẽ có được nhiều hơn thế từ người khác.

Nếu tôi là bạn, tôi đã không giận người bạn thân bởi hình ảnh một người thứ ba xa lạ, để rồi đánh mất mãi mãi những gì đã vun đắp bằng tình bạn chân thành. Nếu tôi là bạn, tôi sẽ bỏ ngay suy nghĩ người khác phải làm điều này cho mình trước khi mình làm điều kia cho họ.

Nếu tôi là bạn, tôi đã không vì chút lòng ích kỷ, ghen tị với mọi người mà bỏ quên bản thân mình, để rồi cứ phải dằn vặt trong những tháng ngày đơn độc. Bạn không muốn ai ở bên bạn cũng bởi bạn quá yêu bản thân mình, hơn bao giờ hết.

Nếu tôi là bạn, tôi sẽ luôn nghĩ ngày mai tươi sáng hơn ngày hôm qua chứ không bi quan cho một ngày mới dù vì bất cứ lý do gì.

Nếu tôi là bạn, tôi đã không chạy đi tìm một bến đỗ mới cho bản thân khi bến đỗ cũ chưa được xây dựng vững chắc. Đôi lúc đó là xu hướng, nhưng khi làm người khác mất niềm tin thì cũng thật khó để làm tốt công việc dù bạn có thực sự muốn như vậy...

Nếu tôi là bạn, tôi sẽ cố loại bỏ những suy nghĩ nhạy cảm không đáng có về một ai đó để rồi sinh ra ngớ ngẩn. Tất cả chỉ để chứng minh bạn "ngưỡng mộ" người đó.

Nếu tôi là bạn, tôi sẽ không giành quá nhiều thời gian vào 4 bức tường và màn hình Internet để tách biệt với thế giới. Cuộc sống ngoài kia có nhiều thứ tươi đẹp để khám phá.

Nếu tôi là bạn, tôi sẽ không lôi khiếm khuyết của người khác ra để bàn luận dẫu cho đó chỉ là trò đùa. Nếu tôi là bạn, tôi cũng sẽ không nghĩ ranh giới giữa tình bạn và tình yêu mong manh đến thế.

Nếu tôi là bạn, tôi không nghĩ về ngày mai (tương lai) khi hôm nay (hiện tại) tôi không biết phải làm gì. Có thể ngày mai sẽ không bao giờ đến hoặc sẽ đến nhưng bạn có nghĩ mình sẽ ra sao khi ngày mai thực sự đến.

Nếu tôi là bạn... nếu... tất cả cũng chỉ là giả định. Những thứ đã qua đi và để lại chút gì đó cho bạn, cho tôi và những người bạn của chúng ta đôi lúc khiến tất cả trưởng thành hơn. Có thể tôi không thành công như bạn, không hành động được như bạn ở một khía cạnh nào đó nhưng tôi giả định mình là bạn để hiểu hơn tính cách những người bạn của mình, để trải nghiệm thêm cuộc sống từ những gì mình từng nhận được.

Vậy có khi nào bạn không phải là bạn, bạn là tôi hay ai đó không nhỉ? Tại sao lại không kia chứ!


CỎ ĐUÔI GÀ Sưu tầm.

Bạn có đồng ý với tôi là việc tìm một thú thư giãn hoặc một niềm đam mê ngoài công việc, học hành hàng ngày chắc chắn sẽ cho bạn nhiều hứng khởi. Tôi biết vài người có những thú vui hoàn toàn có vẻ không có gì liên quan đến lối sống hoặc công việc của họ và thậm chí thú vui mà họ đang đeo đuổi cũng chẳng phải chuyên nghiệp. Thế nhưng, tôi luôn thấy thú vị với bất ký ai có một thú vui riêng nào đó mà đôi khi có người nhận xét nó thật vô bổ. Có khi nào bạn nghĩ đến những việc này, cho cuộc sống thường nhật bớt nhàm chán, hoặc đơn giản chỉ để tâm hồn mình thoải mái, nhiệt tâm hơn:

1. HỌC MỘT MÔN VẬN ĐỘNG HOẶC ĐỂ THƯ GIÃN: Tôi đoán nhiều bạn trẻ thích võ thuật hiếm khi ị stress. Mà nếu có, họ đã có một nơi giảm stress quá sức hiệu quả: phòng tập võ. Bạn thử bắt chước họ học một môn võ. Bạn cũng có thể tham gia một lớp học khiêu vũ, trượt patin, leo núi, dù lượn…thậm chí học nấu ăn, thêu thùa, đan lát…bất cứ học cái gì, miễn thấy hứng thú, bạn sẽ thấy đời sống bớt tẻ nhạt biết bao.

2. KHOE MỘT TẤM ẢNH NGỘ GHĨNH TRÊN FACEBOOK: Tôi rất dị ứng với những người drama (tạm gọi là hay than sầu kể khổ) trên facebook. Hãy cho bạn bè thấy bạn luôn yêu đời, vui vẻ, lạc quan…đôi khi chỉ bằng một tấm ảnh đang…rất “khùng” của bạn. Bạn đừng nghĩ mình khóc than hoài người khác sẽ quan tâm nhé! Một hoặc hai lần thôi, đến lần thứ ba bạn sẽ làm người khác và cả chính bạn nữa sẽ ngán ngẩm đấy.

3. CHINH PHỤC THỬ THÁCH TRONG MỘT GAME: Tôi biết có một anh bạn từng dẹp hết mọi việc dành ra gần 3 ngày đêm chỉ để chơi… game. Xong cuộc, anh ta cũng xếp trò đó sang một bên, không rớ tới nữa. Tất nhiên tôi không khuyến khích bạn bắt chước theo cách này, nhưng thử theo đuổi một game nào đó, đôi khi rất vui bổ, sẽ cho bạn chút cân bằng.

4. TẬP SỐNG VUI MỘT MÌNH: Con người cơ bản là cô đơn, vì thế mỗi khi cảm thấy chỉ có một mình, bãn đừng xem đó là thảm họa. Tìm cho mình một niềm vui giản dị (đọc sách, xem phim, chơi nhạc, nghe nhạc, nấu ăn…) chính là cách bạn không để mình phụ thuộc vào tình cảm của bất kỳ ai. Đời sống có phải vì thế mà dễ dàng hơn không?



CHÚC BẠN 7 NGÀY MỚI SẮP TỚI THẬT VUI VẺ. HÃY ĐỌC VÀ TÌM CHO MÌNH NHỮNG NIỀM VUI THẬT GIẢN DỊ VÀ HỢP VỚI BẠN NHÉ!!!!


CỎ ĐUÔI GÀ

Phát huy thành công của lần sinh hoạt đầu tiên của Nhóm chúng ta, nhằm thắt chặt thêm tình thân ái giữa các thành viên, tạo điều kiện cho các thành viên được giao lưu và học hỏi các đề tài hữu ích cho cuộc sống của những người trẻ, đồng thời cũng giúp các bạn thư giãn sau một năm học tập và những ngày thi cử căng thẳng.
Được sự đồng thuận và ủng hộ của Cha Linh hướng, tiếp nối chương trình sinh hoạt lần đầu tiên của Cụm II, Ban Điều Hành Nhóm Hiệp Nhất sẽ tổ chức một cuộc Trại giao lưu, học hỏi cho tất cả thành viên của Nhóm với chủ đề: "GIEO MẦM TIN YÊU".

* Thời gian: Từ 07g ngày 12/08 đến 15g30 ngày 13/08 năm 2013.
* Địa điểm: Nhà Thờ Giáo xứ Sơn Hòa, thuộc Giáo Hạt Bình Giả, giáo phận Bà Rịa
* Chi phí tham dự: Mỗi thành viên tham gia sẽ đóng góp 100.000đ.
* Hạn chót ghi danh, nộp kinh phí: 01.08. 2013


Vậy, Ban Điều Hành trân trọng thông báo và mong các thành viên tích cực phổ biến cũng như nhanh chóng đăng ký với Ban Điều hành Cụm hoặc Trưởng Đại diện các giáo xứ/ giáo họ của mình.
Đừng bỏ lỡ một cơ hội tham gia Khóa Trại đặc biệt lần đầu tiên được tổ chức của Nhóm với nhiều chương trình sinh hoạt, giao lưu, vui chơi và được học hỏi với Quý Cha các đề tài nóng bỏng như: “ Tuổi trẻ và Đức Tin”, “ Thành phố và những cạm bẫy”, “ Đi tìm một nữa yêu thương” cũng như khám phá kho tàng mà Mẹ Thánh Quan Thầy Têrêsa Calcutta để lại cho chúng ta…

Chúng tôi đang chờ các bạn!!!!

TM. Ban Điều Hành
CV. Francisco Phong

CHƯƠNG 3:
BƯỚC THEO CHÚA

Từ ngày lãnh nhận bí tích rửa tội, trong lòng của An-rê xuất hiện một ước vọng: anh muốn noi gương Thánh An-rê Tông Đồ bổn mạng, ra đi rao giảng và làm chứng cho Tin Mừng anh đã lãnh nhận. Chúa Thánh Thần thực sự đã tác động trong tâm hồn anh. Người đốt lên trong lòng anh ngọn lửa nhiệt thành với Phúc Âm như ngày xưa Người đã đốt lên nơi các Tông Đồ: “Không mãn nguyện với bậc giáo hữu, anh nảy ý định tham gia vào việc làm cho nhiều người trở lại”. Anh chia sẻ tâm tình với mẹ, Bà Gio-an-na không ngờ ước vọng của mình từ ngày mang thai An-rê đến nay lại thành hiện thực. Chúa đã thực hiện nơi bà một ơn trọng nữa! Ơn thứ nhất là  An-rê được lãnh nhận phép Thánh Tẩy. Giờ đây Chúa lại nhậm lời bà bằng cách gieo vào lòng An-rê con bà một hạt giống thiên triệu. Lòng tri ân dâng trào, bà cất lời Magnificatcùng Mẹ Maria tạ ơn Thiên Chúa. Bà định đến gặp Cha Đắc Lộ để trình bày cho ngài ý định của An-rê, nhưng lúc này Cha đã rời vùng Phú Yên, Qui Nhơn để trở lại Quảng Nam. Thời điểm mà Cha Đắc Lộ rời Phú Yên có lẽ vào khoảng hạ tuần tháng 6 năm 1641. Nói đến An-rê mà không đề cập đến Cha Đắc Lộ thật là thiếu sót. Có thể nhận xét rằng, không có Cha Đắc Lộ, Giáo Hội Vn không có một An-rê Phú Yên kiên cường trong Đức Tin vào thời điểm phôi thai của mình.

CHA ĐẮC LỘ

Cha A-lịch-sơn Đắc-Lộ (Alexandre de Rhodes) sinh vào khoảng năm 1593 tại vùng Comtat Venaissin, tỉnh Avignon nước Pháp. Lúc bấy giờ lãnh thổ miền Avignon thuộc Tòa Thánh Rôma nên Cha Đắc Lộ là công dân La Mã hay là công dân của Đức Giáo Hoàng. Tổ tiên của Cha Đắc Lộ là người Do Thái đã trở lại đạo Công Giáo sinh sống tại Tây Ban Nha. Sang đầu thế kỷ XVI, dòng họ Cha Đắc Lộ di chuyển lên sinh sống tại miền Avignon. Thân phụ Cha là một trong những bậc vị trong vùng.

Thuở thiếu thời, Cha Đắc Lộ học tiểu học và trung học tại quê nhà. Năm 1612, Cha được nhận vào Dòng Tên ở Rôma với ước vọng đi truyền giáo ở Viễn Đông. Lúc đó Cha được 19 tuổi. Thầy Đắc Lộ chú tâm học hành, nhất là những môn thần học và toán học. Sau khi thụ phong linh mục năm 1618, Cha được chỉ định sang truyền giáo ở Nhật Bản. Khởi hành từ Lisbonne, thủ đô nước Bồ Đào Nha, ngày 4/4/1619 trên chuyến tàu mang tên Thánh Nữ Têrêsa, Cha hướng về vùng đất truyền giáo miền Viễn Đông.

Sau những chặng đường dài ghé qua Goa (Ấn Độ), Malacca (Malaysia), Cha đến Áo Môn (Macao, Trung Hoa) ngày 29/5/1624. Từ Áo Môn, Cha chuẩn bị sang Nhật Bản. Nhưng lúc ấy tình hình công việc truyền giáo đang gặp nhiều khủng hoảng, chính quyền Nhật Bản cấm đạo gay gắt. Vì lý do đó, Cha Đắc Lộ được phái sang Đàng Trong (Cauchinchine), Việt Nam.

Cuối tháng 12 năm 1624, đời chúa Nguyễn Phúc Nguyên (1613-1635), Cha đến Đà Nẵng sau 19 ngày vượt biển. Đồng hành với Cha có sáu giáo sĩ Dòng Tên, trong đó có Cha Gabriel de Mattos và một giáo sĩ người Nhật thông thạo chữ Hán. Vào thời gian sau này Cha Buzomi làm Bề trên phụ trách phái đoàn truyền giáo ở Đàng Trong. Trong đoàn truyền giáo Dòng Tên, đặc biệt có Cha Pina thông thạo tiếng Việt, rao giảng tin mừng không cần thông ngôn.

Trong hoàn cảnh truyền giáo mới, để có thể hội nhập và rao truyền Tin Mừng Đức Kitô, Cha Đắc Lộ bắt đầu học tiếng Việt. Nhờ tư chất thông mình và lòng nhiệt thành với Tin Mừng, Cha học rất mau. Sau bốm tháng, Cha đã giải tội được bằng tiếng Việt và sau sáu tháng nữa, Cha đã có thể giảng dạy bằng ngôn ngữ người bản xứ. Cha ghi lại việc học hành của mình như sau: “Một thiếu niên trong xứ chỉ trong ba tuần lễ đã dạy tôi đủ hết các cung giọng tiếng Việt, và cách đọc của tất cả các tiếng. Cậu ấy không hiểu tiếng tôi và tôi không hiểu tiếng cậu, nhưng cậu thông minh đến nỗi tự nhiên hiểu được hết các đều tôi muốn nói, và thật sự cũng trong ba tuần lễ ấy, cậu đã học đọc được các thư của chúng tôi, lại còn viết được tiếng Pháp, và giúp lễ bằng tiếng La-tinh. Tôi ngạc nhiên thấy một trí khôn mẫn tiệp như vậy và cả trí nhớ vững chắc nữa. Từ đó cậu làm Thầy giảng giúp các Cha, và đã trở nên một lợi khí đắc lực làm sáng danh Thiên Chúa ở Giáo Đoàn này và trong xứ Lào, vì về sau, Thầy sang đó hoạt động mấy năm rất có hiệu quả”

Sau khi thông thạo tiếng Việt, Cha Đắc Lộ cùng với Cha Pina từ Quảng Nam ra Thuận Hóa giảng đạo rồi các ngài trở vào Quảng Nam năm 1626. Cũng năm này, Cha Pina từ trần vì bị đắm tàu tại cửa biển Hội An.
Sang tháng 7 năm 1626, Cha được gọi về Áo Môn (Macao). Nhưng vào năm sau Cha lại được sai đến giảng Tin Mừng cho đàng ngoài (Tokin). Ngày 19/3/1627, Cha đến cửa Bạng (Thanh Hóa), làm Bề trên phái đoàn truyền giáo ở Đàng Ngoài. Cùng ra Đàng Ngoài với Cha có Cha Pierre Marquez. Nhờ thông thạo tiếng Việt, nên việc truyền giáo của Cha có kết quả ngay từ bước đầu. Trong dịp này, Cha Đắc Lộ được tiếp kiến Chúa Trịnh Tráng lúc đó đang có mặt tại Thanh Hóa trong đợt tiến quân vào nam đánh Chúa Nguyễn. Sau đó Cha theo Chúa Trịnh Tráng ra Thăng Long.

Sau gần hai năm hoạt động, các Cha gặp một thử thách lớn. Năm 1629, Chúa Trịnh Tráng cấm đạo và buộc các Tây Dương đạo trưởng phải trở về Áo Môn hoặc vào Đàng Trong. Cha Đắc Lộ bị giải xuống thuyền có 36 người lính áp tải đề đi vào nam. Trong hơn ba tuần lễ lênh đênh trên sóng nước với đoàn lính áp tải này, Cha đã rửa tội được 24 người. Thay vì đưa Cha vào Đàng Trong, những người lình này đã để Cha đổ bộ xuống tại Bố Chánh, Nghệ An là vùng giáp giới giữa lãnh thổ Chúa Nguyễn và Chúa Trịnh. Cha hoạt động rao giảng Tin Mừng trong vùng Nghệ - Tĩnh này hơn bốn tháng rồi lại trở ra Thăng Long thăm các tín hữu. Đến tháng 5 năm 1630, Chúa Trịnh Tráng buộc Cha phải rời Đàng Ngoài. Đau lòng, Cha gạt nước mắt rời giáo đoàn Đàng Ngoài. Một thương thuyền người Bồ cho Cha đáp tàu về lại Áo Môn.

Tại Áo Môn, Cha dạy học trong mười năm tại học viện Dòng Tên. Đến năm 1640, Cha Buzomi Bề trên phái đoàn truyền giáo Đàng Trong từ trần, Cha Đắc Lộ được cử đến đảm nhận trách nhiệm trưởng phái đoàn truyền giáo thay cho Cha Buzomi vừa quá cố. Cha đến cửa Hội An vào mùa sinh nhật năm 1640. Sau khi thăm các tín hữu ở Quảng Nam và Thuận Hóa, Cha có ý định xuôi thuyền về vùng Quảng Ngãi, Qui Nhơn, Phú Yên đến để hỏi thăm những họ đạo mà trước đây Cha Buzomi đã đến. Dịp thuận tiện đã đến. Đó là mùa chay năm 1641, Cha Đắc Lộ lên tàu xuôi về những họ đạo ở phía nam Đàng Trong. Chính trong thời gian này, Cha Đắc Lộ có dịp đến Phú Yên và đã rửa tội cho An-rê vào mùa Phục Sinh năm 1641. Cha ở lại vùng Phú Yên, Qui Nhơn khoảng sáu tháng rồi trở lại Quảng Nam.

Tại Quảng Nam, một viên quan có tên là Ông Nghè Bộ trao cho Cha một chiếu chỉ của Chúa Thượng. Cha bị buộc phải rời Việt Nam theo lệnh trục xuất của Chúa Công Thượng Vương Nguyễn Phúc Lan (1635-1648). Trước khi ra đi theo lệnh của Chúa Thượng, Cha gặp các tín hữu, an ủi họ và hứa sẽ trở lại Ngày 2/7/1641 Cha đáp tàu sang Philippin rồi sau đó đổi tàu về Áo Môn. Sống tại Áo Môn khoảng sáu tháng, Cha không thể nào quên những cộng đoàn, họ đạo tại Việt Nam, đặc biệt ở Đàng Trong. Lúc nào Cha cũng nghĩ đến họ như đoàn chiên côi cút không người chăn dẫn. Khoảng tháng giêng năm 1642, nhân một thương thuyền người Bồ từ Áo Môn chở hàng sang Hội An, Cha đáp tàu này sang Việt Nam.

Cuối tháng giêng năm 1642, Cha đến Hội An. Viện lý do tận dụng thời gian khi thuyền buôn ghé đậu vào cảng để trao đổi mua bán hàng hóa, trước hết Cha vào thăm Ông Nghè Bộ là ông quan trước đã trục xuất Cha theo lệnh của Chúa Thượng. Cha mang theo một số vật là từ Phương Tây làm quà cho Ông Nghè Bộ. Có lẽ do hảo ý từ phong cách hiếu khách, xã giao của Cha đã làm cho Ông Nghè Bộ thay đổi rất nhiều. Ông tiếp Cha trong bầu khí thân thiện. Sau đó Cha ra thẳng Thuận Hóa để yết kiến Chúa Thượng, đồng thời dâng tặng Chúa Thượng một số phẩm vật, trong đó có những chiếc đồng hồ trên mặt có in chữ Hán. Ở lại Thuận Hóa một vài ngày, Cha bắt đầu công việc mục tử của mình: đi thăm và ban bí tích cho các tín hữu đồng thời rao giảng Tin mừng cho những người chưa nhận biết Chúa. Vì lệnh trục xuất của Chúa Thượng vẫn còn, nên sau khi chiếc tàu buôn của người Bồ rời Hội An, Cha phải hoạt động kín đáo hơn. Ban ngày Cha ẩn náu trong thuyền, ban tối Cha mới bí mật đi thăm các họ đạo. Chính trong thời gian này, khi trở lại Phú Yên năm 1642, Cha đã nhận An-rê vào đoàn thầy giảng do Cha sáng lập để giúp Cha trong công việc rao truyền Tin Mừng vào thời điểm đầy khó khăn này.

Vào khoảng giữ năm 1643, những thương thuyền người Bồ đến Hội An để mua bán và trao đổi hàng hóa một lần nữa. Thường thì một năm họ chỉ đến một vài lần nhất là vào thời gian có gió mùa thuận lợi. Nghe tin có đoàn thuyền buôn đến, Cha Đắc Lộ trở về Hội An để nhận thư từ và một số vật dụng. Một số người Bồ Đào Nha khuyên Cha nên theo tàu của họ trở về Áo Môn một thời gian để vua quan nhà Nguyễn thấy Cha chấp hành mệnh lệnh, rồi sau đó tìm cách trở lại Đàng Trong, lúc đó chắc chắn sẽ có nhiều thuận lợi hơn cho công việc tông đồ của Cha. Nhận thấy lời khuyên hợp lý, tháng 9 năm 1643 Cha đáp tàu sang Philippin rồi trở về Áo Môn, sau khi giao công việc truyền giáo cho đoàn thầy giảng gồm mười thầy, trong đó có An-rê Phú yên là người trẻ tuổi nhất.

Đầu tháng 3 năm 1644, Cha Đắc Lộ trở lại Đàng Trong. Đây cũng là lần thứ năm và là lần cuối cùng Cha trở lại Việt Nam sau những đợt đi tạm lánh lệnh truy nã, trục xuất của vua quan nhà Nguyễn ở Đàng Trong cũng như họ Trịnh ở Đàng Ngoài. Ngày 26/7/1644, Cha Đắc Lộ trở thành nhân chứng trực tiếp khi chứng kiến cuộc tử đạo anh dũng của Thầy giảng An-rê Phú Yên tại dinh Thanh Chiêm thuộc huyện Điện Bàn, gần cửa biển Hội An.

Hai tháng sau cái chết của Thầy giảng An-rê, tức vào khoảng tháng chín năm 1644, Chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan (1635-1648) ra chiếu chỉ tử hình Cha Đắc Lộ nhưng sau đó lại đổi thành lệnh trúc xuất. Ngày 3/7/1645, Cha Đắc Lộ ngậm ngùi từ giả Việt Nam, một cuộc từ giã mà Cha đã viết: “Vĩnh biệt bằng thể xác chứ không phải bằng tâm hồn, vì tâm hồn tôi đã để ở cả xứ Nam cũng như xứ Bắc.” Một số quan chức ở Dinh Chiêm theo Cha lên tận tàu và đọc lệnh trục xuất trước những thương gia cũng như thủy thủ người Bồ: Giáo sĩ Đắc Lộ bị cấm chỉ không bao giờ được trở lại Việt Nam nữa, và chủ tàu nào còn chở đạo trưởng này đến, sẽ bị tử hình.

Cha trở về Áo Môn dạy học tại học viện Dòng Tên, đồng thời cũng dạy tiếng Việt cho hai Cha Metello Saccano và Carlo della Rocca. Ngày 20/12/1645 trong lúc hai Cha này đáp tàu đến Đàng Trong thì Cha Đắc Lộ phải đáp tàu sang Châu Âu để vận động thành lập hàng giáo phẩm ở Việt Nam.

Sau một cuộc hành trình đầy gian khổ kéo dài suốt ba năm sáu tháng, tưởng chừng như đã chết đi sống lại, cuối cùng Cha đã đến được La Mã ngày 27/6/1649. Cha Đắc Lộ dâng hai bản điều trần, một bản cho bộ Truyền Giáo ghi ngày 2/8/1650 và một cho Đức Giáo Hoàng ghi ngày 6/3/1651. Nội dung chính của hai bản điều trần này là xin cử một Giám Mục sang Việt Nam để củng cố một giáo đoàn phía Đông này đang có nhiều triển vọng.

Ngày 11/9/1652, Cha Đắc Lộ rời La Mã đi Paris để vận động cho công cuộc truyền giáo ở Việt Nam. Tại đây, Cha làm quen với nhóm “Les Bons Amis” (Những người bạn tốt) đầy tình thần truyền giáo, nhất là với Cha Francois Pallu, là người sáng lập Hội Truyền Giáo Hải Ngoại Pháp (MEF) ở Paris.

Sau những cuộc vận động của Cha, kết quả đã đến. Theo đoản sắc ngày 29/7/1658, Tòa Thánh phong cho Cha Pallu làm Giám Mục hiệu tòa Heliopolis và Cha Lambert de la Motte làm Giám Mục hiệu tòa Béryte, cả hai tân Giám Mục làm đại diện tông tòa ở Việt Nam. Kế tiếp, đoản sắc ghi ngày 9/9/1659 chỉ định địa phận của Đức Cha Pallu gồm Đàng Ngoài, Ai Lao và năm tỉnh ở Trung Hoa; kế tiếp địa phận Đức Cha  Lambert de la Motte gồm Đàng Trong, bốn tỉnh Trung Hoa và đảo Hải Nam.

Một điều đặc biệt là chính Cha Đắc Lộ vì khiêm nhường đã từ chối không nhận vinh dự là làm Giám Mục tại Việt Nam theo như ý Tòa Thánh. Vâng lệnh Bề trên, ngày 16/11/1654, Cha rời Pháp để sang truyền giáo tại Ba Tư (Persia). Vào đầu tháng 11 năm 1655 Cha đến Ispahan, thủ đô Ba Tư và làm Bề trên phái đoàn truyền giáo ở đây. Tại vùng tuyền giáo mới mà đa số ngoiwf dân theo Hồi Giáo này, Cha lại bắt đầu cuộc hội nhập mới. Cha học tiếng Ba Tư để dễ hòa nhập vào cộng đồng và đồng thời dùng ngôn ngữ như là công cụ đắc dụng để rao truyền Tin mừng cũng như Cha đã học tiếng Việt khi Cha đến Việt Nam.

Công cuộc truyền giáo tại Ba Tư không có kết quả mong muốn như ở Việt Nam vì phần đông dân chúng đã theo Hồi Giáo. Nhưng niềm vui lớn nhất của Cha khi ở Ba Tư là được tin Đức Giáo Hoàng đã ký đoản sắc bổ nhiệm các Đức Giám Mục tại Việt Nam đồng thời ấn định ranh giới hai địa phận Đàng Trong và Đàng ngoài. Sau năm năm hoạt động truyền giáo ở vùng Ba Tư, ngày 5/11/1660, Cha từ trần tại Ispahan.

Cha Đắc Lộ là người có công lớn nhất của Giáo Hội Việt Nam. Suốt cuộc đời của ngài đã gắn liền với những cộng đoàn tiên khởi của Giáo Hội Việt Nam, cả Đàng Trong lẫn Đàng Ngoài. Suốt 21 năm xuôi ngược trên khắp miền đất nước để rao giảng Tin Mừng Đức Kitô, Cha đã hòa nhập vào dòng chảy lịch sử - văn hóa của dân tộc Việt Nam, cách riêng đối với lịch sử thăng trầm của Giáo Hội trong những ngày tháng phôi phai. Sự dấng thân, gắn bó đó thể hiện nơi lời tự trần của Cha vào ngày Cha bị chính quyền nhà Nguyễn ra lệnh trục xuất khỏi Việt Nam: “Vĩnh biệt bằng thể xác chứ không phải bằng tâm hồn, vì tâm hồn tôi đã để lại ở cả xứ Nam cũng như xứ Bắc.” Hơn nữa, khi bị trục xuất vĩnh viễn khỏi Việt Nam, Cha đã làm hết cách như vận động thánh bộ Đức Tin, vận động Giáo Hoàng cho Giáo Hội Việt Nam có các Đức Giám Mục. Theo Cha, sự hiện diện của các Đấng kế vị Tông Đồ là bảo đảm cho sự tồn tại và phát triển của Giáo Hội qua việc ban các bí tích và tấn phong hàng giáo sĩ, nhất là các giáo sĩ bản địa.

Có thể nói rằng, không có Cha Đắc Lộ, giáo hội Việt Nam không có An-rê Phú Yên. Ngài chính là người tái sinh phần hồn cho An-rê. Cũng chính ngài là người đã nhận và đào tạo An-rê trong đoàn Thầy Giảng để rồi chính ngài phải chứng kiến cảnh học trò mình bị tử hình vì niềm tin vào Đức Kitô. Hơn nữa, ngài trở thành chứng nhân trực tiếp cho cuộc tuẫn đạo anh hùng của An-rê. Lời chứng sống động, trực tiếp này nơi các sách ngài viết đã trở thành nguồn sử liệu vô giá về một người con đầu tiên dòng giống Lạc Hồng đã dám đổ máu vì Tình Yêu Chúa Kitô mà chúng ta, thế hệ con cháu, đang hưởng những quả phúc từ công khó của các ngài.

TIẾNG GỌI LÊN ĐƯỜNG

Nhắc lại An-rê, từ khi được lãnh nhận bí tích rửa tội, trong lòng anh bừng dậy một ngọn lửa dấng thân cho công việc rao giảng Tin Mừng. Anh thổ lộ cùng mẹ, dịp may đã đến. Năm 1642, cha Đắc Lộ trở lại Phú yên lần hai. Đây là niềm vui cho họ đạo Phú Yên vì họ được gặp lại vị chủ chăn sau gần một năm xa cách. Nhưng có ai biết rằng trong họ đạo này, có một chàng trai đang mong chờ Cha từng ngày để thổ lộ những nỗi lòng của mình. Sau khi biết được ý định của An-rê muốn theo Cha để phụ giúp vào công việc rao giảng Tin mừng, Cha Đắc Lộ nhìn anh trìu mến và nói rằng anh còn quá trẻ càn phải học tập nhiều hơn nữa mới có thể theo Cha được. Đó là một cách khích lệ cậu. Cha biết mình đang ở trong một thời điểm đầy khó khăn do các vua quan nhà Nguyễn gây ra. Nếu mang theo chàng trai trẻ này, Cha sợ sẽ gặp nhiều hệ lụy cho cậu.

Nhưng Cha không ngờ mình gặp mọt tâm hồn đang nóng bỏng với ơn gọi theo Thầy Giêsu. An-rê nài nỉ Cha hết lòng. Cậu sẵng sàng đón nhận tất cả, cho dù có phải dâng hiến cả mạng sống vì Chúa cậu cũng vui lòng.. Cha khuyên cậu cân nhắc và cầu nguyện nhiều hơn nữa trước quyết định của cậu. Một mình không thuyết phục được Cha Đắc Lộ, An-rê nhờ đến mẹ mình là bà Gio-an-na đến gặp Cha. Chưa yên tâm, An-rê đến gặp bà Maria Mađalêna là người đỡ đầu anh và cũng là người có uy tín trước Cha Đắc Lộ. Sau những cuộc trao đổi giữa Cha Đắc Lộ với bà Maria Mađalêna và bà Gio-an-na, đồng thời cũng với những lời cầu nguyện của chính Cha, cuối cùng Cha quyết định chọn chàng trai An-rê vùng Phú Yên đi theo Cha. Ai có thể diễn tả được niềm vui của An-rê như thế nào được bằng chính bà mẹ của anh. Niềm vui của anh cũng là niềm vui của mẹ vì ước vọng cho hạt mầm ơn thiên triệu mà mẹ anh đã xin Chúa gieo vào trong lòn anh giờ đây đang mọc lên chồi non đầy hứa hẹn. Giữa tuổi đời xuân xanh, An-rê từ giả gia đình, xứ đạo, bè bạn xóm giềng lên đường theo tiếng gọi Tình Yêu.

TỔ CHỨC THẦY GIẢNG VIỆT NAM

Trong lịch sử truyền giáo Việt Nam, Hội hay Tổ chức Thầy Giảng là một điểm để qui chiếu nhìn lại quá trình hình thành và phát triển của Giáo Hội Việt Nam, đặc biệt là hàng Giáo sĩ Việt Nam. Công cuộc truyền giáo ở Việt Nam trước khi các Cha Dòng Tên đến không mang lại hiểu quả. Các nhà truyền giáo nước ngoài đến Việt Nam không thông thạo tiếng bản xứ thường phải nhờ thông ngôn. Sự chuyển đạt của thông ngôn thường gặp ít nhiều khó khăn trong cách thức tiếp biến văn hóa, truyền thống tư tưởng Đông Tây.Điều này ảnh hưởng rất nhiều đến sự chuyển đạt Tin Mừng cho người bản xứ. Khi các nhà truyền giáo theo các đoàn thuyền buôn ra đi thì công việc truyền giáo của các ngài cũng dừng lại vì không có người tiếp nối.

Rút kinh nghiệm vào việc truyền giáo ở Nhật vào khoảng cuối thế kỉ XV, đầu thế kỉ XVI, các Cha Dòng Tên bắt dầu chú ý đến vai trò người bản xứ trong việc rao giảng Tin Mừng. Một tấm Bánh Phúc Âm khi được Đức Kitô bẻ ra truyền cho các môn đệ Người trao ban cho nhân loại, không có miếng mẫu nào giống miếng mẫu nào nhưng đó vẫn là một tấm bánh. Khi đối diện với Tin Mừng, mỗi dân tộc, mỗi nền văn hóa có những cách thứ tiếp biến văn hóa có những cách tiếp biến khác nhau. Sự tiếp biến này dẫn đến hiện tượng hội nhập, dung hợp hay dị ứng, đào thải. Các vị thừa sai Dòng Tên nghĩ rằng, hơn ai hết, người bản xứ là người biết rõ chính họ là ai trong không gian văn hóa, trong nhận thức về nhân sinh và vũ trụ của dân tộc họ, những điểm mạnh cũng như những điểm yếu của họ để có thể thích ứng với việc tiếp biến Tin Mừng.

Tổ chức Thầy Giảng bắt đầu manh nha từ thời Cha Buzomi, vị Tông Đồ nhiệt thành xứ Đàng Trong vào những ngày đầu sơ khai Giáo Hội Việt Nam. Từ khi đặt chân lên Việt Nam tại cửa Hội An ngày 18/1/1615, Cha bắt đầu chú ý đến những giáo hữu bản xứ nhiệt thành, đạo đức. Cha đã dùng họ để phụ giúp Cha và các Cha khác trong công việc truyền giáo. Những người này được gọi là “Thầy Giảng”. Họ không có lời khấn hứa, tuyên thệ; cũng không thành tổ chức đoàn thể. Trong khoảng thời gian truyền giáo ở Đàng Ngoài từ năm 1627-1630, Cha Đắc Lộ có một hướng mới cho tổ chức Thầy Giảng này. Cha quy tụ một số tín hữu đạo đức, nhiệt thành lập ra Hội Thầy Giảng. Trong số những thầy giảng đầu tiên có một số nhà sư mới chịu phép Thanh Tẩy, đó là thầy Antôn, Thầy Phanxicô. Có thể xem đây là tầm nhìn của Cha Đắc Lộ trong việc rao truyền Tin Mừng cho người bản xứ. Tổ chức Thầy Giảng này được Cha cho làm lễ tuyên thệ vào tháng 5 năm 1630, trước khi Cha bị Chúa Trịnh Tráng trục xuất vĩnh viễn khỏi xứ Đàng Ngoài. Trong Thánh Lễ trọng thể, ba Thầy Giảng đầu tiên, đó là thầy Phanxicô, thầy Andrê, thầy Ignatio tuyên thệ trước Cha Đắc Lộ và cộng đoàn giáo dân ba lời khấn:
1.      Không lập gia đình cho đến khi có các thừa sai khác đến thay thế.
2.      Để làm của chung tất cả những tiền của giáo dân dâng cúng trợ cấp cho các Thầy trong việc Tông Đồ.
3.      Vâng lời bề trên do các Cha cắt đặt.

Buổi lễ diễn ra trong bầu khí trang nghiêm cảm động. Nhiều người rơi nước mắt. Trong ba thầy này, thầy Phanxicô được đặt làm Thầy Bề Trên. Các Thầy được giáo hữu kính trọng, mến phục. Đây là tổ chức Thầy Giảng đầu tiên của Cha Đắc Lộ tại Đàng Ngoài. Ngày lên đường rời khỏi xứ Đàng Ngoài theo lệnh Chúa Trịnh Tráng, Cha Đắc Lộ gạt nước mắt để lại đoàn chiên gần năm ngàn tín hữu mà Cha đã vất vả thu góp về trong vòng ba năm từ 1627-1630 cho các Thầy Giảng trông coi thế Cha. Trên một thương thuyền người Bồ, Cha trở về Áo Môn mà không biết ngày trở lại. Từ đó, các ngài hăng say, nhiệt tình trong công tác rao giảng, dạy dỗ Tin Mừng và củng cố đức tin anh em mình.

Rời Đàng Ngoài vào cuối tháng 5 năm 1630, Cha Đắc Lộ trở lại Áo Môn và dạy học tại đây. Năm 1639, Cha Buzomi, Bề Treenphais đoàn truyền giáo Đàng Trong mất. Sau đó, Cha Đắc Lộ được cử đến thay thế cha Buzomi điều hành việc truyền giáo tại vùng Đàng Trong, tức là phần lãnh thổ của Chúa Nguyễn.

Vào khoảng tháng 12 năm 1640, Cha Đắc Lộ đến Đàng trong qua cửa biển Hội An. Điều mà Cha quan tâm nhất khi trở lại truyền giáo tại Việt Nam là việc thành lập tổ chức Thầy Giảng như Cha đã thành lập ở Đàng Ngoài cách đây mười năm. Chín người được chọn để thành hình một tổ chức Thầy Giảng ở Đàng Trong. Trụ sở hoạt động chính của các Thầy Giảng tập trung ở Hội An và Đà Nẵng. Cha Đắc Lộ vừa là Cha Giám Đốcvừa là Cha linh hướng vừa kiêm luôn Cha giáo chính. Tổ chức này không cố định mà luôn di động từ vùng này sang vùng khác vì thời cuộc không cho Phép. Đó là một hình thức đào luyện thích nghi để có thể tồn tại trong một hoàn cảnh đầy khó khăn, tế nhị. Mục đích của việc đào luyện là làm sao cho các Thầy đảm nhận được trách vụ truyền đạt, rao giảng Tin Mừng cho đồng bào của mình.

Xuất thân là một đồ đệ của thánh Ignatio, Thánh tổ Dòng Tên, Cha Đắc Lộ có đủ năng lực để làm cho tổ chức Thầy Giảng tồn tại và phát triển cả về mặt trí thức nhân bản, kiến thức giáo lý, văn hóa lẫn lòng đạo đức. Phụ giúp với Cha Đắc Lộ trong công việc đào luyện Thầy Giảng, Chúa Quan Phòng đã gởi đến Cha một trí thức Việt Nam thực sự đã lãnh phép rửa tội, đó là Thầy Ignatio (Y-xa-nhô). Trước khi trở thành con cái Chúa bằng dấu ấn bí tích rửa tội, Y-xa-nhô là một con người cương trực liêm chính, xuất thân từ cửa Khổng sân trình. Ông sinh năm 1609, tại làng Liêm Công, gần cửa Tùng, tỉnh Quảng Trị. Là người có kiến thức rộng, thông thạo kinh sử, ông được bổ làm một chức quan trong Dinh Tổng trấn Nguyễn Phú Khuê. Ông đã lập gia đình nhưng vợ mất sớm. Năm 1641, ông được một người dân giới thiệu với Cha Đắc Lộ. Sau những lần trao đổi với Cha Đắc Lộ, ông quyết định lãnh phép thánh tẩy trở thành con Thiên Chúa tại Quảng Nam. Đó là năm 1641, cùng năm lãnh nhận phép thánh tẩy với An-rê Phú Yên. Tuy được tái sinh phần hồn vào tuổi ngoài ba mươi, nhưng ông đã trở thành một nhân vật nồng cốt trong tổ chức Thầy Giảng của Cha Đắc Lộ. Cha Đắc Lộ đặt tên ông là Y-xa-nhô vì nhận thấy ông là người có những hiểu biết sâu rộng, thông thái lãnh hội những chân lý từ kho tàng Tin Mừng rất nhanh, xứng đáng là môn đệ của Thánh tổ Dòng Tên. Sự kỳ vọng của Cha Đắc Lộ trở thành hiện thực. Sau khi lãnh nhận bí tích thánh tẩy, Y-xa-nhô xin từ chức quan, bỏ hết mọi sự mình có để theo lời mời gọi của Cha Đắc Lộ gia nhập đoàn Thầy Giảng. Trước mặt người đời thời đó, ông là một tên điên; nhưng trước mặt Thiên Chúa ông đã tìm được cho mình viên ngọc vô giá, đó là Đức Giêsu. Khi gia nhập đoàn thầy giảng, Y-xa-nhô trở thành cánh chim đầu đàn về mọi phương diện kiến thức, giáo lý, nhân đức, và nhất là việc rao giảng Tin Mừng cho đồng bào của mình. Chúa quan phòng đã dự liệu cho ông những nền tảng cần thết để giờ đây ông trở thành tông đồ đắc lực trong việc làm chứng tá cho Đức Giêsu. Cha Đắc Lộ đặt ông làm Bề Trên đoàn Thầy Giảng. Tự thâm tâm mình, ông không muốn vì nhân đức khiêm hạ; nhưng vâng lời ông đã từ bỏ ý riêng để lãnh lấy trách vụ ấy. Theo Cha Đắc Lộ “Y-xa-nhô lớn tuổi hơn, có nhiều khả năng hơn hết và nhất là cũng rất nhân đức như các Thầy khác...Thầy là người có một địa vị lớn, trước đã làm quan, có kiến thức rộng nhờ tinh thông Hán học, và đặc biệt nơi thầy có những nhân đức thật cao cả. Thầy chính là một vị Thánh. Nói thật ra, chưa bao giờ tôi cảm thấy phấn khởi, hạnh ngộ vì đã gặp một con người như thế”


Năm 1642, khi trở lại họ đạo Phú Yên, Cha Đắc Lộ nhận An-rê vào đoàn Thầy Giảng. Thế là đoàn Thầy Giảng được nâng lên con số mười thành viên, trong đó An-rê là người trẻ nhất. Rồi chúng ta sẽ tiếp tục xem chàng trai trẻ vùng Phú Yên này được trưởng thành như thế nào dưới máu trường Thầy Giảng, tiền thân của Nhà Đức Chúa Trời, của các Chủng Viện đào luyện hàng giáo sĩ Việt Nam sau này.


Có một cậu bé đang chơi ở đống cát trước sân. Khi đào một đường hầm trong đống cát, cậu bé đụng phải một tảng đá lớn. Cậu bé liền tìm cách đẩy nó ra khỏi đống cát.

Cậu bé dùng đủ mọi cách, cố hết sức lực nhưng rốt cuộc vẫn không thể đẩy được tảng đá ra khỏi đống cát. Đã vậy bàn tay của cậu còn bị trầy xước, rướm máu. Cậu bật khóc rấm rứt trong thất vọng.

Người bố ngồi trong nhà lặng lẽ theo dõi mọi chuyện. Và khi cậu bé bật khóc, người bố bước tới: “Con trai, tại sao con không dùng hết sức mạnh của mình?”.

Cậu bé thổn thức đáp: “Có mà! Con đã dùng hết sức rồi mà bố!”.

“Không, con trai - người bố nhẹ nhàng nói - Con đã không dùng đến tất cả sức mạnh của con. Con đã không nhờ bố giúp”.

Nói rồi người bố cúi xuống bới tảng đá ra, nhấc lên và vứt đi chỗ khác.



* * *

Bạn thân mến, bạn là người có cá tính mạnh mẽ? Bạn rất tự lập? Điều đó thật đáng quí! Nhưng bạn đang có những “tảng đá lớn” cần phải giải quyết. Và bạn nhận thấy mình không đủ khả năng để loại bỏ nó?

Trong cuộc sống không phải lúc nào người ta cũng có thể tự mình làm được hết mọi việc. Sức mạnh của mỗi chúng ta còn nằm ở những người thân, bạn bè - những người luôn quan tâm, lo lắng và sẵn lòng giúp đỡ chúng ta.


CỎ ĐUÔI GÀ Sưu tầm

Tôi thường đáng giá cao và mong muốn được kết bạn với những người có óc hài hước, không chỉ vì họ thường là những người thông minh (khoa học đã chứng minh) mà ở gần những người vui tính, bạn không bao giờ thấy chán đời. Những người có óc hài hước thường có cái nhìn lạc quan vào mọi điều xảy ra trong cuộc sống, vì thế tôi đoán cuộc sống của họ thường rất tươi tắn, ít khi nào nặng nề vì gặp vấn đề gì họ đều biết có một phương án để giải quyết: đó chính là một cái nhìn lạc quan vê mọi việc đã diễn ra không như ý muốn.
Từ khi mở chuyên mục này, không phải đây là lần đầu tiên tôi cổ súy cho thái độ sống lạc quan. Cuộc sống càng nhiều áp lực bủa vây thì việc nhìn mọi chuyện theo khía cạnh “ít áp lực” nhất chính là cách bạn tìm thấy niềm tin yêu. Lạc quan chính là liều thuốc tinh thần giúp bạn vượt qua những cơn bạo bệnh (khoa học  cũng đã chứng minh) hay ít nhất, nó làm bạn xinh đẹp, tươi tắn, da dẻ hồng hào vì không phải lo nghĩ. Tuần này, tôi muốn chia sẻ với các bạn những “cái nhìn” lạc quan có thể làm thay đổi cách suy nghĩ của bạn về một vấn đề gây stress ở một khái cạnh lạc quan, tích cực hơn:

1. LẠC QUAN VỀ TÌNH YÊU- HÔN NHÂN: 
Nhiều bạn trẻ ngày nay yêu đương rất sớm, rồi chia tay cũng rất nhanh. Trải qua một vài mối tình chẳng đâu ra đâu thì đã ũ rũ cho là mình “ế” rồi, rồi nghĩ ra cái hội FA gì đó hết sức vớ vẩn. Có nhiều vấn đề khác cần phải làm khi ta còn trẻ và còn sức khỏe như tạo dựng sự nghiệp, có một nền tảng tài chính vừa đủ…. Nói như hoa hậu VN 2012 Đặng Thu Thảo: “ Tôi phải tự làm chủ cuộc sống của mình, lỡ….ế thì cũng vui vẻ vì có điều kiện kinh tế tốt”.

2. LẠC QUAN NHƯ MỘT NGƯỜI GIÀU CÓ: 
Có thể bạn cho rằng “người giàu thường không có nhiều vấn đề phải lo lắng nên lạc quan là phải rôi, tôi nghèo rớt mồng tơi hổng lo lắng về tài chính mới là kì à”. Thế nhưng, có thể bạn không biết những người tay trắng làm giàu thường có nhiều trải nghiệm nên chắc chắn họ biết muốn sống vui vẻ để làm giàu bạn phải lạc quan trước đã. Bãn hãy tìm đọc cuốn Tập thói quen của người giàu, biết đâu bạn không chỉ có cảm hứng làm giàu thêm gia sản của mình mà còn thật sự giàu có trong suy nghĩ, thái độ sống.

3. LẠC QUAN NẾU BẠN CÓ MỘT XUẤT THÂN NGHÈO KHÓ: 
Dù ý thứ ba này có vẻ mâu thuẫn với ý trên nhưng bạn sẽ rất ngạc nhiên nếu biết nhiều ngôi sao Holywood thành danh tột bực, trở thành người giàu có khủng khiếp, hoặc phần lớn các tỉ phú thế giới đều có một quá khứ nghèo khó. Tôi tin ít nhiều trong cuộc sống họ đã lạc quan về tương lai của mình và như một kiều tự kỷ ám thị, khi bạn lạc quan về tương lai, bạn sẽ chạm được mơ ước.



HÃY LẠC QUAN TRONG TRONG SUY NGHĨ, THÁI ĐỘ SỐNG, LẠC QUAN VỀ MỘT TƯƠNG LAI TỐT ĐẸP. ĐÓ LÀ CÁCH BẠN CHẠM ĐUỢC VÀO ƯỚC MƠ.
CHÚC BẠN 7 NGÀY MỚI ĐẦY LẠC QUAN VỀ SỨC KHỎE, HỌC TẬP, CÔNG VIỆC, DỰ ĐỊNH VÀ CẢ NHỮNG ƯỚC MƠ.



CỎ ĐUÔI GÀ

CHƯƠNG HAI
CON LÀ AN-RÊ
HỌ ĐẠO PHÚ YÊN

Năm 1624, Cha Phanxicô Buzomi là vị thừa sai đầu tiên đặt chân đến vùng đất Phú Yên. Nghĩa là gần mười năm, từ ngày đặt chân lên cửa Hội An (18-1-1615) đến nay Cha mới có dịp để đến thăm nơi này. Lúc bấy giờ Phú Yên đã có một họ giáo tuy rất nhỏ nhưng rất sốt sắng nhiệt tình với Đức Tin. Có thể phần đông họ là những giáo hữu tại Quảng Nam, Qui Nhơn theo trào lưu di dân vào đây khai phá, lập nghiệp, hoặc theo cơ quân vào trấn giữ vùng cực nam của đất nước.

Trong số đó có bà Maria Mađalêna, vợ Quan Trấn Thủ Nguyễn Phúc Vinh. Bà Maria Mađalêna, còn gọi là Ngọc Liên Công Chúa, con đầu lòng Sãi Vương Nguyễn Phúc Nguyên (1563-1635) là người kế vị Tiên Vương Nguyễn Hoàng. Bà là chị của Hoàng Tử Nguyễn Phúc Kỳ. Nếu Hoàng Tử Nguyễn Phúc Kỳ đứng đầu hàng con trai thì bà Ngọc Liên đứng đầu hàng con gái. Bà sinh khoảng năm 1596. Đến tuổi lập gia đình, bà kết bạn với ông Nguyễn Phúc Vinh. Trước khi theo chồng về vùng Phú Yên, Bà ở tại phủ Chúa Nguyễn và thỉnh thoảng vào Quảng Nam và thăm em là Thế Tử Nguyễn Phúc Kỳ đang giữ chức Quan Trấn Thủ tại Quảng Nam. Tại đây bà có cơ hội tiếp xúc với các Cha Thừa Sai Dòng Tên. Lúc bấy giờ, Hội An là cửa ngõ và trung tâm thương mại giao dịch với người nước ngoài. Nhà Nguyễn cần mở rộng quan hệ với các thương nhân ngoại quốc, đặc biệt với phương Tây để có thêm nguồn hàng hóa, nhất là khí giới nhờ đó có thể đối phó với nhà Trịnh phía Bắc. Tại đây, năm 1615, khi Cha Francisco Buzomi theo đoàn tàu buôn người Bồ cập bến Hội An, Thế Tử Nguyễn Phúc Kỳ tiếp đón Cha rất long trọng. Có lẽ công chúa Ngọc Liên đã có cơ hội nghe biết về Đức Kitô qua những lần gặp gỡ Cha Buzomi và các Cha Dòng Tên khác vào dịp này. Năm 1629, Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên cử Phó Tướng Nguyễn Phúc Vinh vào trấn giữ vùng Phú yên. Bà Maria Mađalêna, tức Ngọc Liên công chúa, theo chồng vào đây.

Nhờ biết được Đức Giêsu qua các Cha và nhờ ơn Chúa cùng với lòng khao khát chân thành đối với Đấng là nguồn Chân Thiện Mỹ, năm 1636 bà đã lãnh bí tích rửa tội. Với vị thế của mình, bà Maria Mađalêna có ảnh hưởng rất lớn đối với những giáo dân đầu tiên tại đây. Bà lập một nhà nguyện ngay trong Dinh Quan Trấn thủ. Các tín hữu có thể đến đây để đọc kinh, học hỏi Giáo Lý. Bà cũng cho dựng một nhà thương chăm sóc các bệnh nhân, người già lão, tàn tật với mục đích cứu giúp các linh hồn và sống chứng nhân Tin Mừng giữa lòng quê hương. Chính Bà là người sau này đã chuẩn bị những buổi học giáo lý và tổ chức lễ rửa tội cho 90 người vào năm 1641, trong đó có An-rê.

Nếu như Chúa dùng bà Maria Madelêna như người mẹ để lo cho con cái Người ở vùng cực nam đất nước có một nền móng đức tin vững vàng nhờ vị thế của bà, thì trong âm thầm, Người cũng chuẩn bị một người mẹ khác để đem cho quê hương một Hạt Giống Tình Yêu sống động. Đó là bà Gio-an-na. Song thân của bà Gio-an-na là một trong những giáo hữu đầu tiên lãnh nhận phép rửa tội bởi các Cha Dòng Tên. Có lẽ đó là khoảng thời gian khi các ngài đặt chân lên vùng đất Quảng Nam qua cửa biển Hội An năm 1615. Theo thời cuộc, cha mẹ của Gio-an-na cùng một số thân quyến di chuyển xuống vùng Phú Yên để lập nghiệp. Tại đây, Gio-an-na là mootrj trong những thiếu nữ đạo đức của họ đạo Phú Yên. Người ta thường thấy Gio-an-na có mặt tại ngôi nhà nguyện do bà Maria Mađalêna dựng lên trong Dinh Quan Trấn thủ. Chắc chắn Gio-an-na giúp ích cho bà Maria Mađalêna rất nhiều trong công việc tông đồ, bác ái, truyền giáo, ngoài những việc ruộng đồng phụ giúp cha mẹ. Chính môi trường này đã hun đúc nơi Gio-an-na một tâm hồn ddaioj đức, một tấm lòng nhân ái Kitô giáo, tô điểm thêm cho nét đẹp công dung ngôn hạnh vốn có của người phụ nữ VN. Chính vì thế mà sau này, Cha Đắc Lộ đã gọi bà là một giáo hữu rất nhân đức của họ đạo Phú Yên.

MỘT NGƯỜI MẸ

Bà Gio-an-na lập gia đình trước khi Cha Francisco Buzomi đến thăm họ đạo Phú Yên, tức là trước năm 1624. Người ta không nói gì về chồng bà trong bối cảnh thời đó. Một bối cảnh mà ai cũng cố sức ổn định cuộc sống sau những lần di cư lập nghiệp, nhất là tại miền cực nam đất nước này. Khi nghe Cha Buzomi đến thăm vùng Phú Yên, Gio-an-na cùng chồng bà và các con đến gặp vị chủ chăn để xin chuẩn nhận cho cuộc hôn nhân theo nghi thức hôn nhân công giáo đòi hỏi. Có lẽ trong dịp này cha Francisco Buzomi đã ban bí tích hôn nhân cho một số gia đình đồng thời ngài cũng rửa tội cho một số dự tòng và các trẻ nhỏ. Một năm sau, năm 1625, bà Gio-an-na sinh hạ thêm một bé trai. Đây là đứa con út của bà. Bà cảm thấy hạnh phcus khi nhìn đứa trẻ say sưa yên giấc trong vòng tay của mình. Như những người phụ nữ đạo đức thánh thiện, phải chăng bà đã thầm mong cho đứa con mình đã cưu mang sinh hạ được nên giống Thầy Giêsu Chí Thánh? Đúng thế! Bà cảm tạ Chúa đã ban cho bà một đứa con xinh xắn như lòng bà mong ước. Thật ra, trong cõi lòng bà, từ ngày cưu mang đứa bé, bà đã có nguyện vọng dâng hiến nó cho Thiên Chúa. Bà muốn trở thành người phục vụ cho Tin Mừng. Bà đã ru đứa bé trong lòng bằng những lời Magnificatcủa Mẹ Maria, bằng những lời Avê Mariatrong đời sống thường ngày. Bà muốn tin con bà cùng đập một nhịp với tim bà trong lời kinh ca tụng, ta ơn, đền tạ Thiên Chúa. Cung lòng bà Gio-an-na thật là mảnh đất hứa hẹn một mùa gặt bội thu! Chính cung lòng bà là ngôi trường trước tiên đã hun đúc nên một tâm hồn thánh thiện, cống hiến cho vinh quang Nước Trời và Quê Hương mai sau.

Đứa trẻ lớn lên trong hạnh phúc và chăm sóc của người mẹ. Nếu cung lòng bà là ngôi trường trước tiên đã mang lại cho đứa bé một của thụ đạo đức, thì mái nhà nơi đây, bà trở thành người thầy đầu tiên dạy cho đứa bé biết đọc bập bẹ được tên Giêsu, Maria... trong vòng tay của bà. Có lẽ lời ru theo tiết điệu ca dao, dân ca được sửa thành những bài ca tụng, tôn vinh Thiên Chúa của bà là những bài giáo lý khai tâm cho cậu bé khi còn trên vành nôi. Rồi đứa bứ được học những câu kinh, lời ca, những bài giáo lý đơn sơ với mẹ mình khi theo mẹ ra đồng ruộng, hoặc trên đường đến nhà nguyện của họ đạo.

Bà thật là một người Mẹ Côn Giáo VN điển hình. Lâm cảnh góa bụa rất sớm, một mình bà phải đảm đang tất cả mọi việc trong gia đình. Từ việc mưu sinh cho gia đình đến hết việc hạy dỗ con cái về mọi mặt. Tuy thế, mối bận tâm lớn nhất của bà là làm sao lo cho các con mình có một lòng đạo đức, nhất là cậu con út này. Nhờ sự quan tâm và dạy dỗ hết lòng của mẹ, càng ngày cậu bé càng thông minh và đức hạnh. Các giáo hữu trong họ đạo Phú Yên cảm thấy vui khi họ đạo của mình có một cậu bé như thế, nhất là bà Mađalêna, vợ Quan Trấn Thủ. Ngoài những bài học giáo lý với mẹ, cậu cũng được nghe những lời giảng dạy của bà Mađalêna tại ngôi nhà nguyện của họ đạo. Chính trong bối cảnh này, tại họ đạo và nhất là người mẹ trong gia đình, đã hình thành nơi cậu một hướng đi cho đời mình. Nhưng có một điều mà lòng bà Gio-an-na lúc nào cũng băn khoăn: cậu con út chưa được rửa tội. Bà cầu mong Chúa ban cho con bà được lãnh bí tích rửa tội bởi tay vị Linh Mục càng sớm càng hay. Niềm khát mong của bà Gio-an-na đã được Chúa nhậm lời.

TÁI SINH PHẦN HỒN: CON LÀ AN-RÊ

Năm 1641, cậu con út của bà Gio-an-na được 16 tuổi, thì một sự kiện đáng nhớ xẩy đến cho họ đạo Phú Yên: có Linh Mục đến thăm, đó là Cha Đắc Lộ (Alexandre de Rhodes). Dù đặt chân đến VN tại của Hội An từ năm 1624, nhưng nay Cha mới đến thăm những xứ đạo ở tận cùng Đàng Trong này. Rời Đà Nẵng tại cửa Hội An vào dịp mùa chay năm 1641, cha Đắc lộ hướng tàu về vùng Quảng Ngãi, Qui Nhơn, lần lượt đến thăm các giáo hữu trong vùng và ban các bí tích cho họ. Đến ngày 29/3/1641 là ngày thứ sáu Tuần Thánh, Cha xuống tàu đi Phú Yên. Mục đích của chuyến đi là làm sao cho kịp để cử hành nghi thức Vọng Phục Sinh tại nhà nguyện họ đạo Phú Yên và mở tuần Đại Phúc ở đây. Một cơn bão dữ dội xảy ra làm Cha nghĩ khó có thể đến đó được như ý nguyện. Nhưng sáng Chúa Nhật Phục Sinh ngày 31/3/1641 trời trở nên lặng gió. Cha dâng lễ trên tàu cho mọi người tham dự để mừng Chúa Phục Sinh, đồng thời cám ơn Chúa đã gìn giữ đoàn tàu bình yên sau cơn bão. Sau đó tàu giương buồm định hướng cửa bể Bà Đài (vụng Xuân Đài ngày nay) để đến Phú Yên.

Được tin quan coi cửa biển báo trước, Quan Trấn Thủ dinh Trấn Biên Nguyễn Phúc Vinh sai tùy tùng ra đón cha Đắc Lộ vào dinh. Quan Trấn thủ có biết Cha Đắc Lộ qua vợ mình là bà Maria Mađalêna. Mặc dù chưa lãnh phép rửa tội như vợ mình, Quan Trấn Thủ có một tấm thịnh tình đối với các Cha, Trước khi vào nhậm chức Quan Trấn Thủ Dinh Trấn Biên năm 1629, một phẩm tước chỉ dành cho những người trong dòng họ Chúa Nguyễn, ông có nghe về sự việc các Cha đạo trưởng nước ngoài đến giảng đạo tại xứ Đàng Trong này, nhất là vùng Nước Mặn (Qui Nhơn).

Vào khoảng năm 1621, khi các Cha Buzomi, Cha Pina Dòng Tên đến giảng đạo tại Qui Nhơn. Số người tin vào Thiên Chúa và lãnh phép rửa mỗi ngày một đáng kể. Điều này đã làm cho mọt nhà sư nổi tiếng ở đó lấy làm khó chịu. Người ta gọi nhà sư này là Thầy Tư Bình. Có đến 200 đệ tử dưới quyền thầy. Thấy ảnh hưởng cuả mình đối với dân chúng ngày càng giảm mất, trong khi đó thể giá của các đạo trưởng phương Tây mỗi ngày càng được dân chúng biết đến, Thầy quyết định phải làm một cái gì đó để hạ bệ đối thủ. Theo kế hoạch, Thầy Tư Bình cho người mang thư đến cho Cha Buzomi và hẹn một ngày cùng nhau tranh luận vấn đề đạo giáo trước mặt các quan quân và dân chúng.

Ngày giờ cho cuộc tranh luận đã đến. Dân chúng tụ họp tại nơi đã ấn định rất đông, ác quan chức, kỳ hào, hương trưởng, sư sãi, đặc biệt những tín đồ của Thầy Tư Bình. Có lẽ đối với họ đây là một sự kiện quan trọng hiếm khi xảy ra. Thầy Tư Bình xuất hiện trong sự long trọng, uy nghi: đi đầu là đoàn kèn trống trổi nhạc tưng bừng, rầm rộ; kế đến là 200 đệ tử áo mũ chỉnh tề đi rước; sau cùng là Thầy Tư Bình ngự trong cáng có lọng che phất phới. Cha Buzomi cũng xuất hiện sau đó. Thật trái ngược với Thầy Tư Bình, Cha cùng với bạn là Cha Pina khiêm tốn trong bộ áo chùng, lặng lẽ rẽ đám đông tiến vào nơi diễn đàn. Mọi người yên lặng chờ đợi. Cuộc tranh luận bắt đầu sau hồi chiên trống ngân vang.

Thầy Tư Bình vốn là một nhà sư nổi tiếng thuyết pháp và hùng biện có ngờ đâu lại gặp một người ngoại quốc không phải là người bản quốc, tinh thông tất cả những kiến thức Khổng Giáo, Lão Giáo, Phật Giáo và cả truyền thống, đạo lý thờ kính ông bà của người bản xứ. Thầy đành chấp nhận thua cuộc. Còn Cha Buzomi và Cha Pina trở về trong tâm tình hân hoan cảm tạ. Chúa Thánh Linh vì chính Người đã dùng miệng lưỡi các ngài mà làm  cho danh Thiên Chúa được tỏa sáng. Sau biến cố đó, lòng tin của các tín hữu được cũng cố thêm, đồng thời số người trở lại đạo mỗi ngày một thêm...

Nói về Cha Đắc Lộ, khi đoàn tùy tùng rước Cha Đắc Lộ về đến dinh thì đã thấy Quan Tổng Trấn đứng trước cổng dinh nghênh đón. Cuộc đón tiếp diễn ra trong bầu khí thân thiện. Quan Trấn Thủ tỏ ra tử tế và thiện cảm. Với hảo ý muốn dành cho các nhà tu hành một nơi riêng biệt phù hợp với đời sống của các ngài. Quan Trấn Thủ dành cho các Cha một ngôi nhà xứng đáng và tiện việc tiếp xúc, gặp gỡ các bổn đạo. Cha Đắc Lộ bắt đầu ngay công việc của mình.

Ngôi nhà của Cha trở thành chỗ tự họp các tín hữu trong cánh đồng Tuy An, Phú Yên. Cha gặp gỡ bà Mađalêna để hỏi thăm về tình hình giáo hữu. Cha rất vui lòng vì sự nhiệt tình sốt sắng của bà cũng như các tín hữu. Bà Mađalêna cho Cha biết có một nhóm tín hữu dự tòng khoảng 90 người do bà giúp đã lâu đang ao ước lãnh nhận bí tích rữa tội. Theo kế hoạch, Cha mở Tuần Đại Phúc vào ngay Tuần Bát Nhật Phục Sinh năm 1641 để cho các tín hữu mừng Mầu Nhiệm Phục Sinh đồng thời dọn tâm hồn cho 90 tín hữu dự tòng lãnh nhận phép rửa tội. Trong nhóm tín hữu dự tòng này, có một chàng trai vừa chớm tuổi thanh niên. Anh ta là con của bà Gio-an-na. Nhờ sự nhắc nhở, quan tâm và cầu nguyện của bà Mađalêna, đặc biệt của mẹ mình, anh ta sốt sắng tham gia tuần đại phúc để xứng đáng lãnh nhận ơn trọng đại sắp tới.

Tuần Bát Nhật bắt đầu với bài Đạo Thánh Đức Chúa Trời trong ngày thứ nhất. Cha Đắc Lộ giảng về đời này và đời sau, Trời và Đức Chúa Trời, Ba Đấng Bề Trên, Ba Đấng thưởng phạt... Chàng thanh niên trẻ say xưa nghe những lời giảng dạy của Cha. Những lời mà mẹ anh đã dạy cho anh hằng ngày, ngay từ tấm bé nhưng nay sao có một sức hấp dẫn lạ thường. Anh cảm thấy lòng mình dâng lên niềm hạnh phúc khó tả. Đến ngày thứ hai, Cha Đắc Lộ Giảng về Đức Chúa Trời là cội rễ mọi sự, là Đấng phép tắt vô cùng, lòng lành vô cùng, công bằng vô cùng, hằng sống vô cùng. Càng nghe anh càng thấy lòng trí bé nhỏ của mình mở ra trước một Đấng Tối Cao, Quyền Năng và đầy lòng thương xót đối với toàn thể nhân loại, trong đó có anh, có dân tộc anh. Những buổi giáo huấn được tiếp tục theo cuốn bổn Phép Giảng Tám Ngày mà Cha đã soạn. Những buổi giảng dạy của Cha được các tín hữu tham dự sốt sắng, đông đảo.

Ngày trọng đại đã đến, ngày lãnh nhận bí tích rửa tội. Theo cách diễn đạt của Cha Đắc Lộ, việc rửa tội này diễn ra vào ngày lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống năm 1641. Thật sự, không còn dịp nào tốt hơn dịp này để vị Chủ Chăn ban bí tích rửa tội, tái sinh 90 linh hồn trở thành con cái của Thiên Chúa dưới tác động của Chúa Thánh Thần. Nhìn đoàn người trong tà áo trắng quì chắp tay hướng về vị Chủ Chăn đang giang tay cầu nguyện xin ơn Thánh Thần trong khuôn viên nhà nguyện của bà Mađalêna, ta liên tưởng đến nhóm các Tông Đồ trong bữa tiệc ly xưa trong dịp lễ Ngũ Tuần. Chúa Thánh Thần đã đến và biến đổi các tông đồ. Nhờ đó, các ngài trở thành cộng đoàn cơ bản bung ra xây dựng nước trời. Hôm nay trong dịp lễ Hiện Xuống, 90 linh hồn được tái sinh nhận lãnh ơn Chúa Thánh Thần làm thành một cộng đoàn cơ bản tại vùng phía nam đất nước là dinh Trấn Biên này. Noi gương các thánh Tông Đồ xưa, họ sẽ trở thành chứng nhân cho Thầy Giêsu Chí Thánh giữa lòng quê hương dân tộc. Đoàn người tiến lên để nhận lãnh phép rửa. Bà Gio-an-na dẫn con mình đến trước Cha Đắc Lộ đọc lớn tiếng: An-rê, ego te baptizo in nomine Patris et Fillii, et Spiritus (An-rê, Cha rửa con, nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần).

Vâng, từ nay chàng trai trẻ sẽ được gọi là An-rê của vùng Phú Yên. Mọi người kỳ vọng nơi anh.. Rồi đây anh sẽ giống như Tông Đồ An-rê xưa sống chứng nhân Tin Mừng nhiệt tâm giữ quê nhà theo tinh thần vị Thánh bổn mạng. Bà Mađalêna đến chúc mừng anh. Đứng bên cạnh mẹ, An-rê bày tỏ lòng biết ơn chân thành đối với bà Mađalêna bằng những lời cảm động chân tình. Chính bà là ân nhân và là người đỡ đầu cho tất cả moi tín hữu được lãnh phép rửa hôm nay. Thật sự, sau bao tháng ngày học hỏi chuẩn bị, đây mới là ngày hạnh phúc của tất cả mọi người. Ngay cả Cha Đắc Lộ cũng bày tỏ niềm hạnh phúc mà ngài cảm nhận được trong bối cảnh một cộng đoàn sơ khai được hình thành trên bước đường rao giảng Tin Mừng của ngài. Cha cho biết: “Khi tôi ngồi tòa thì cá kẻ giảng làm phận sự dạy kẻ tân tòng. Tôi cũng tìm thời gian để giảng mỗi ngày hai lần. Lương dân kéo đến lũ lượt và Thiên Chúa phán trong lòng họ. Số người chịu phép rửa tội nhiều khi quá đông, không làm trong nhà thờ được, mặc dầu nhà thờ khá rộng lớn, đành phải dạy dỗ rửa tội cho họ ở sân trước cửa nhà thờ. Thế mà trong công việc này, tôi không cảm thấy mệt mỏi, không ngã bệnh. Tôi vui sướng đến nỗi không biết tôi còn ở dưới đất hay là đã lên trời”


Riêng An-rê trở về trong niềm hạnh phúc chan hòa. Niềm hạnh phúc được nhân đôi lên vì ước nguyện của bà Gio-an-na giờ đây đã thành hiện thực. An-rê con bà nay là con cái Thiên Chúa, là đền thờ sống động của Chúa Thánh Thần. Hai mẹ con đồng tâm hiệp ý tạ ơn Thiên Chúa. Cuộc đời của An-rê từ đây thực sự bắt đầu một chặng đường mới.


Hàng tuần khi chia sẻ với các bạn trong chuyên mục này, tôi thường khuyến khích mọi người nên làm điều này, nên mạnh dạn nghĩ về điều kia…. Tôi luôn muốn cổ súy cho một thái độ sống mạnh mẽ, tự lập, dám nghĩ, dám làm và biết chịu trách nhiệm. Tuy nhiên tuần này cho phép tôi được đề cập tới vấn đề không chia sẻ với người khác những gỉ khi ta “sống” trên mạng xã hội. Xét cho cùng, mạng xã hội tuy là đời sống ảo nhưng vơi không ít người hiện đại, nó đã trở thành kênh để chi sẻ một phần cuộc sống. Không thể phủ nhận tính tích cực của mạng xã hội khi kết nối được nhiều người với nhau, giúp chúng ta lien lạc với nhau tốt hơn và nhanh hơn. Tuy nhiên mặt trái của mạng xã hội cũng mang lại nhiều phiền toái không đáng mà không ít người mắc phải. Facebook là một trong những mạng xã hội mà đôi khi thiếu kiềm chế, bạn sẽ dùng nó để “trút bầu tâm sự”. 9 điều sau đây mà ngay khoảnh khắc nào đó bạn cảm thấy rất phấn khích nhưng không nên để lên facebook:

1. Những nhận xét, phát biểu về đối thủ của mình, đặc biệt là đối thủ trong công việc.

2. Đưa bạn bè ra làm trò cười. Có thể ở ngoài đời, đó là người bạn thân thiết của bạn và chẳng chấp bạn khi chọc ghẹo bất cứ điều gì. Thế nhưng trên thế giới online, việc đùa bỡn đích danh có thể làm người đó không thoải mái.

3. Đề cao bản thân một cách thái quá.

4. Công bố tin tức nóng hổi nào đó về bạn mình. Có thể đó là tin vui, nhưng nếu ngươi trong cuộc muốn chia sẻ thong tin ấy, họ sẽ tự làm, bạn không nên “cướp” mất quyền phát ngôn của họ. Trừ khi họ không “chơi” mạng xã hội và nhờ bạn làm điều đó.

5. Tiết lộ thông tin về một cuộc gặp gỡ quan trọng, thậm chí bạn được tiếp cận với 1 nhân vật VIP  và rất muốn công bố, hãy cân nhắc.

6. Đưa hình ảnh của trẻ em nếu đứa trẻ đó không phải là con, cháu của bạn.

7. Những thông điệp bi quan, tiêu cực.

8. “ Khoe khoang” rằng mình đã say sưa bí tỉ. Bạn sẽ không biết những người, dù không viết bất kì comment nào về status của bạn, nhưng họ sẽ xầm xì bàn tán về tư cách của bạn và thêu dệt thế nào đâu.


CÓ MỘT NGƯỜI BẠN TRÊN FACEBOOK CỦA TÔI CÓ Ý VUI RẰNG. NẾU BẠN THẤT FB QUÁ PHIỀN VÀ MẤT THỜI GIAN  NHƯNG BẠN ĐÃ LỠ NGHIỆN NÓ MẤT RỒI, LÀM SAO “CAI NGHIỆN”? CÂU TRẢ LỜI KHÔNG PHẢI LÀ BẠN DEACTIVATE TÀI KHOẢN, MÀ BẠN HÃY REMOVE HẾT BẠN BÈ KHỎI DANH SÁCH, KHI BẠN CHỈ CÒN MỘT MÌNH TRÊN CÕI ẤY, CÒN GÌ CHÁN BẰNG MÀ KHÔNG NGHỈ CHƠI MẠNG XÃ HỘI LUÔN? TẤT NHIÊN ĐÂY CHỈ LÀ GỢI Ý VUI, NHƯNG NẾU CỨ LOAY HOAY VỚI FB CẢ NGÀY, CÓ KHI BẠN NÊN THỬ CÁCH NÀY ĐẤY. HÃY ĐỌC CHIA SẺ CỦA TÔI, CHÚC CÁC BẠN 7 NGÀY MỚI BÌNH AN VÀ TRÀN ĐẦY NIỀM VUI!!!!

CỎ ĐUÔI GÀ

Author Name

Biểu mẫu liên hệ

Tên

Email *

Thông báo *

Được tạo bởi Blogger.